Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn (tên chính thức: Vương cung thánh đường chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tộitiếng AnhImmaculate Conception Cathedral Basilicatiếng PhápCathédrale Notre-Dame de Saïgon, gọi tắt là Nhà thờ Đức Bà) là nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận
Thành phố Hồ Chí Minh
, một trong những công trình kiến trúc độc đáo của Sài Gòn, điểm đến của du khách trong và ngoài nước, nét đặc trưng của du lịch Việt
Nam.
Hình ảnh hiếm của Nhà thờ Đức Bà lúc vừa xây.
Tọa lạc tại số 1 Quảng trường Công xã Paris , Quận 1. Nhà thờ Chính tòa còn được gọi là
nhà thờ Đức Bà, được xây dưới thời Đức Giám mục Colombert, phụ trách giáo phận.
Giám mục là người đặt viên đá đầu tiên (07/10/1877) và cũng là người cử hành lễ
khánh thành (11/8/1880). Nhà thờ được xây theo đồ án của kiến trúc sư Bourard,
một chuyên gia về các công trình kiến trúc tôn giáo. Đồ án này là một trong số
18 đồ án xây dựng được đệ trình từ tháng 8/1876.
Nhà thờ Đức Bà năm 1890.
Nhà
thờ Chính tòa là một công trình kiến trúc theo phong cách Roman có chiều dài 91
m, rộng 35m5, vòm mái cao 21m, chiều cao của hai tháp vuông kể từ đất là 36m6,
nếu tính cả hai chóp tháp chuông do kiến trúc sư Gardes thêm vào năm 1885, thì
chiều cao này sẽ là 57,6 m. Nhà thờ được trang trí với 56 cửa kính mầu mô tả
các nhân vật hay sự kiện trong Thánh Kinh, 31 hình bông hồng tròn và 25 cửa sổ
mắt bò, tất cả bằng hình trang trí ghép mảnh. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu về lịch
sử cũng như nét độc đáo của nhà thờ Đức Bà thành phố Hồ Chí Minh.

 

Nhà thờ Đức Bà sau khi đã gắn 2 tháp chuông

Lịch sử nhà thờ Đức Bà

Trong chiến tranh của Thực dân
Pháp tại Việt Nam, ngay sau khi chiếm được Sài Gòn, Pháp đã cho lập nhà thờ để
làm nơi hành lễ cho tín đồ Công giáo trong đoàn quân viễn chinh. Ngôi nhà thờ
đầu tiên được lập ở đường số 5 (nay là đường Ngô Đức Kế). Đây là một ngôi chùa
nhỏ của người Việt bị bỏ hoang do chiến tranh, cố đạo Lefebvre đã biến ngôi
chùa này thành nhà thờ. Nhà thờ đầu tiên đó quá nhỏ nên vào năm 1863, Đô đốc
Bonard đã quyết định cho khởi công xây dựng ở nơi khác một thánh đường bằng gỗ
bên bờ “Kinh Lớn” (còn gọi là kinh Charner, thời Việt Nam Cộng hòa là
trụ sở Tòa Tạp tụng). Cố đạo Lefebvre tổ chức “Lễ đặt viên đá đầu
tiên” xây dựng nhà thờ vào ngày 28 tháng 3 năm 1863. Nhà thờ được xây cất
bằng gỗ, hoàn thành năm 1865, ban đầu gọi là Nhà thờ Sài Gòn. Về sau, do nhà
thờ gỗ này bị hư hại nhiều vì mối mọt, các buổi lễ được tổ chức trong phòng
khánh tiết của “dinh Thống đốc” cũ, về sau cải thành trường học
Taberd, cho đến khi nhà thờ lớn xây xong.
Nhà thờ Đức Bà thập niên 80 của thế kỷ XIX
Tháng
8 năm 1876, Thống đốc Nam kỳ Duperré đã tổ chức một kỳ thi vẽ đồ án kiến trúc
nhà thờ mới. Vừa có chỗ thờ phụng, hành lễ cho tín đồ, vừa đẩy mạnh đạo Công
giáo và sự vĩ đại của nền văn minh Pháp trước người dân thuộc địa. Vượt qua 17
đồ án thiết kế khác, đồ án của kiến trúc sư J. Bourad với kiến trúc theo kiểu
Roman cải biên pha trộn nét Gotich đã được chọn.
 Ban đầu, địa điểm xây cất được đề nghị ở 3 nơi: Trên nền Trường
thi cũ (nay là góc đường Lê Duẩn và Hai Bà Trưng, tức vị trí tòa Lãnh sự Pháp);
Ở khu Kinh Lớn (tại vị trí nhà thờ cũ, nay thuộc đường Nguyễn Huệ) và vị trí
hiện nay.
 
Sau cùng vị trí hiện nay đã được
chọn.
Sau khi đề án thiết kế được chọn,
Đô đốc Duperré cho đấu thầu việc xây dựng thánh đường và cũng chính kiến trúc
sư J. Bourad là người trúng thầu và trực tiếp giám sát công trình này. Mọi vật
liệu từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang. Đặc biệt mặt ngoài
của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille (Pháp) để trần, không
tô trát, (đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi), không bám bụi rêu.
Ngày 7 tháng 10 năm 1877, Giám mục
Isidore Colombert đặt viên đá đầu tiên trước mặt Phó soái Nam Kỳ và đông đủ
nhân vật có ảnh hưởng thời ấy. Thánh đường được xây dựng trong 3 năm. Lễ Phục
sinh, ngày 11 tháng 4 năm 1880, lễ cung hiến và khánh thành được cố đạo
Colombert tổ chức trọng thể với sự có mặt của Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de
Vilers. Hiện nay, trên bệ phía trên, bên trong cửa ra vào nhà thờ, có chiếc
bảng cẩm thạch gắn trong hành lang ( transept ) ghi ngày khởi công, ngày khánh
thành và tên vị công trình sư.
Tất cả mọi chi phí xây dựng, trang
trí nội thất đều do Soái phủ Nam Kỳ đài thọ, với số tiền 2.500.000 france Pháp
theo tỷ giá thời bấy giờ. Ban đầu, thánh đường có tên gọi là Nhà thờ Nhà nước
vì thánh đường do nhà nước Pháp bỏ tiền xây dựng và quản lý.
Năm 1895, nhà thờ xây thêm hai
tháp chuông, mỗi tháp cao 57,6m và hai tháp có 6 chuông đồng lớn nặng 28,85
tấn. Trên đỉnh tháp có đính một cây thánh giá cao 3,50m, ngang 2m, nặng 600 kg.
Tổng thể chiều cao từ mặt đất lên đỉnh thánh giá là 60,50m.
 
Trên
vườn hoa trước nhà thờ, năm 1903, người Pháp cho dựng tượng đồng Pigneau de
Béhaine (còn gọi là Giám mục Adran vì vị này làm Giám mục hiệu tòa Adran) dẫn
hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long) để ca ngợi công lao của nước Pháp “bảo hộ”,
“khai hóa” cho Việt Nam. Tượng đài này bao gồm một bệ bằng đá hoa
cương đỏ hình trụ tròn và bên trên là bức tượng tạc hình đức Giám mục Adran với
phẩm phục giám mục, tay trái dẫn hoàng tử Cảnh. Tượng làm bằng đồng, được đúc tại
Pháp, giới bình dân thời đó thường gọi là tượng “Hai hình” để phân biệt
với tượng “Một hình”, là bức tượng của Đô đốc Hải quân Pháp Genouilly
ở phía công trường Mê Linh (cuối đường Hai Bà Trưng, gần bờ sông Sài Gòn). Năm
1945, tượng này bị phá bỏ, nhưng cái bệ đài bằng đá hoa cương đỏ thì vẫn còn tồn
tại ở đó mà không có bất cứ một bức tượng nào ở trên.
Ngay trước Nhà thờ Đức Bà có một vườn
hoa nhỏ. Từ lúc nhà thờ xây xong cho đến năm 1903, nơi đây có tồn tại một hồ nước
nhỏ.
 Vị trí đặt tượng Đức Mẹ
ngày nay.

 

Năm 1903, người Pháp cho dựng tượng
đồng Pigneau de Béhaine (còn gọi là Giám mục Bá Đa Lộc hoặc Giám mục Adran vì vị
này làm Giám mục hiệu tòa Adran) dẫn hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long) để ca ngợi
công lao của nước Pháp “bảo hộ”, “khai hóa” cho Việt Nam.
Tượng đài này bao gồm một bệ bằng đá hoa cương đỏ hình trụ tròn và bên trên là
bức tượng tạc hình Giám mục Adran với phẩm phục giám mục, tay trái dẫn hoàng tử
Cảnh, tay phải cầm Hiệp ước Versailles năm 1787.
“tượng 1 hình” của Đô đốc
Hải quân Pháp Genouilly đặt tại Công trường Mê Linh.

 

Hình tạp chí Life chụp công viên trước Nhà thờ Đức Bà thập niên 50 của thế kỷ 20. Lúc này, tượng Bá Đa Lộc đã bị dỡ xuống…
Năm 1958, Linh mục Giuse Phạm Văn Thiên (sau làm Giám mục giáo
phận Phú Cường, nay đã qua đời), cai quản giáo xứ Sài Gòn bấy giờ, đã đặt tạc
một tượng Đức Mẹ Hòa Bình bằng loại đá cẩm thạch trắng Carrara của Ý. Tượng
được tạc tại Pietrasanta cách Roma khoảng 500km. Khi tượng hoàn tất đã được đưa
xuống tàu Oyanox vào ngày 8/1/1959 và từ hải cảng Gênes tàu chở tượng qua Việt
Nam và tới Sài Gòn ngày 15/2/1959, sau đó công ty Société d’Entreprises đã dựng
tượng Đức Mẹ lên bệ đá trước cửa nhà thờ Sài Gòn, bệ đá này vẫn còn để trống kể
từ năm 1945. Tự tay linh mục viết câu kinh cầu nguyện “Xin Đức Mẹ cho Việt
Nam được hòa bình” rồi đọc trước đông đảo quan khách có mặt hôm ấy. Ngày
hôm sau, Hồng y Aganianian từ Roma qua Sài Gòn để chủ toạ lễ bế mạc Đại hội
Thánh Mẫu, đã làm phép bức tượng này vào buổi chiều ngày 17 tháng 2 năm 1959.
Do bức tượng này mà từ đó Nhà thờ có tên gọi là Nhà thờ Đức Bà.
Năm 1958, Linh mục Phạm Văn Thiên,
người cai quản giáo xứ Saigon lúc bấy giờ, sau 1 chuyến đi sang Ý, đã đặt 1 đức
tượng Đức Mẹ Hoà Bình bằng đá cẩm thạch Carrara của Ý. Nơi tạc bức tượng là
Pietrasanta, cách Rome 500km.
Tượng hoàn tất và được đưa xuống
tàu ngày 8.01.1959, tới Saigon vào ngày 15.02.1959.
Bức tượng Đức Mẹ Hoà Bình do nhà
điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện.


Tượng cao 4.6m, nặng 8 tấn. Tượng không được đánh bóng với chủ
ý là để nhìn từ xa. Dưới chân Đức Mẹ có 1 con rắn (ngày nay, con rắn đã bị bể mất
hàm trên). Trên bệ đá có 1 tấm bảng với dòng chữ Latin, dịch ra là: “Nữ
Vương Hoà Bình – Cầu cho chúng tôi – 17.02.1959”


Giáp với chân tượng Đức Mẹ có 1 cái hốc, bên trong có 1 chiếc
hộp bằng bạc, chứa những lời cầu nguyện cho hoà bình của Việt Nam và thế giới.
 
Ngày 05/12/1959, nhà thờ Chính tòa
được Tòa thánh Vatican nâng lên hàng Vương cung Thánh đường và Đức Hồng Y
Agagianian, đặc sứ của Đức Giáo hoàng Gioan XXIII, đã làm phép tượng Nữ Vương
Hòa Bình đặt trong công viên trước nhà thờ, nhân dịp ngài tới Sài Gòn. Từ đó,
tên gọi chính thức của thánh đường là Vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn.
Năm 1960, Tòa Thánh thành lập hàng
giáo phẩm Việt Nam với ba tòa Tổng Giám mục tại Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Nhà thờ
trở thành nhà thờ chính tòa của vị Tổng giám mục Sài Gòn cho đến ngày nay.

Những nét đặc sắc của nhà thờ Đức

Trong quá trình xây dựng, toàn bộ
vật liệu xây dựng từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều được mang từ Pháp sang.
Mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille để trần,
không tô trát, (đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi), không bám bụi rêu. Một số
ngói vỡ trong nhà thờ có in hàng chữ Guichard Carvin, Marseille St André France 
(có lẽ là nơi sản xuất loại ngói
này), mảnh ngói khác lại có hàng chữ Wang-Tai Saigon . Có thể đây là mảnh ngói
được sản xuất sau tại Sài Gòn dùng để thay thế những mảnh ngói vỡ trong thời
gian Thế chiến thứ hai do những cuộc không kích của quân Đồng Minh. Toàn bộ
thánh đường có 56 ô cửa kính màu do hãng Lorin của tỉnh Chartres (Pháp) sản
xuất.
Màu gạch đỏ của nhà thờ.

 

Cửa ra vào của nhà thờ

 

 

Cửa sổ của nhà thờ

 

Móng của thánh đường được thiết kế đặc biệt, chịu được tải trọng
gấp 10 lần toàn bộ kiến trúc ngôi nhà thờ nằm bên trên. Và một điều rất đặc
biệt là nhà thờ không có vòng rào hoặc bờ tường bao quanh như các nhà thờ quanh
vùng Sài Gòn – Gia Định lúc ấy và bây giờ.
Nội thất thánh đường được thiết kế
thành một lòng chính, hai lòng phụ tiếp đến là hai dãy nhà nguyện. Toàn bộ
chiều dài thánh đường là 93m. Chiều ngang nơi rộng nhất là 35 m. Chiều cao của
vòm mái thánh đường là 21 m. Sức chứa của thánh đường có thể đạt tới 1.200 người.

 

Gian cung thánh của nhà thờ

 

 

 

Nội
thất thánh đường có hai hàng cột chính hình chữ nhật, mỗi bên sáu chiếc tượng
trưng cho 12 vị thánh tông đồ. Ngay sau hàng cột chính là một hành lang và kế
đó là nhiều nhà nguyện nhỏ với những bàn thờ nhỏ (hơn 20 bàn thờ) cùng các bệ
thờ và tượng thánh nhỏ làm bằng đá trắng khá tinh xảo.
Cánh trái
Cung Thánh
Cánh phải
Đức Mẹ Fátima
gian ghế ngồi của giáo dân
Thánh
Giuse
Kitô Vua
Lòng Chúa
Thương Xót
Thánh Anna
Thánh
Patrick
Thánh
Têrêsa
Đức Mẹ Hằng
Cứu Giúp
Tổng lãnh thiên thần Micae
Các thánh tử đạo Việt Nam
Đức Mẹ Lộ Đức
Thánh
Antôn thành Padova
Bàn
thờ nơi Cung Thánh làm bằng đá cẩm thạch nguyên khối có hình sáu vị thiên thần
khắc thẳng vào khối đá đỡ lấy mặt bàn thờ, bệ chia làm ba ô, mỗi ô là một tác
phẩm điêu khắc diễn tả thánh tích. Trên tường được trang trí nổi bật 56 cửa
kính mô tả các nhân vật hoặc sự kiện trong Thánh Kinh, 31 hình bông hồng tròn,
25 cửa sổ mắt bò bằng kính nhiều màu ghép lại với những hình ảnh rất đẹp.
Bàn thờ cung thánh làm bằng đá cẩm
thạch nguyên khối có hình 6 vị thiên thần khắc vào khối đá đỡ mặt bàn thờ. Mặt
bàn thờ tròn đặt trên khối vuông, bên dưới là các bệ bát giác. Có tổng cộng 7 bậc
thang bước lên cung thánh.
 
Tất cả
các đường nét, gờ chỉ, hoa văn đều tuân thủ theo thức Roman và Gôtich, tôn nghiêm
và trang nhã. Tuy nhiên, trong số 56 cửa kính này hiện chỉ còn bốn cửa là
nguyên vẹn như xưa, còn các cửa kính màu khác đều đã được làm lại vào khoảng những
năm 1949 để thay thế các cửa kính màu nguyên thủy của nhà thờ đã bị bể gần hết
trong thế chiến thứ 2.

 

 

 

Nội
thất thánh đường ban đêm được chiếu sáng bằng điện (không dùng đèn cầy) ngay từ
khi khánh thành. Vào ban ngày, với thiết kế phối sáng tuyệt hảo, hài hòa với nội
thất tạo nên trong nội thất thánh đường một ánh sáng êm dịu, tạo ra một cảm
giác an lành và thánh thiện.
Hình ảnh và họa tiết được khắc bên trong nhà thờ

 

 
Ngay phía trên cao phía cửa chính là “gác đàn” với cây
đàn organ ống, một trong hai cây đàn cổ nhất Việt Nam hiện nay. Đàn này được
các chuyên gia nước ngoài làm bằng tay, thiết kế riêng, để khi đàn âm thanh đủ
cho cả nhà thờ nghe, không nhỏ mà cũng không ồn. Phần thân đàn cao khoảng 3m,
ngang 4m, dài khoảng 2m, chứa những ống hơi bằng nhôm đường kính khoảng một
inch. Phần điều khiển đàn nằm riêng nối với thân đàn bằng những trục, có những
phím đàn như đàn organ bình thường và những phím to đặt dưới sàn nhà (dài chừng
3m, ngang khoảng 1m) để người điều khiển đàn đạp lên khi dùng nốt trầm. Đàn còn
có những thanh gõ lớn để đập vào phần dưới các ống hơi phát ra âm thanh. Hiện
nay, cây đàn này đã hoàn toàn hỏng do bị mối ăn phần gỗ bàn phím điều khiển
bằng tay.

Tháp chuông nhà thờ

Ban đầu, hai tháp chuông cao
36,6m, không có mái và chỉ có độc một chiếc cầu thang hẹp chừng 40 cm bề ngang.
Nội thất gác chuông rất tối và sàn được lót sơ sài bằng những miếng gỗ nhỏ cách
khoảng, nhìn xuống thấy sâu hút. Vào năm 1895, thánh đường xây thêm hai mái
chóp để che gác chuông cao 21 m, theo thiết kế của kiến trúc sư Gardes, tổng
cộng tháp chuông cao 57 m. 
Có tất cả 6 chuông lớn (sol: 8.785kg, la: 5.931kg,
si: 4.184kg, đô: 4.315kg, rê: 2.194, mi: 1.646kg), gồm sáu âm, nặng tổng cộng 28,85
tấn, đặt dưới hai lầu chuông. Bộ chuông này được chế tạo tại Pháp và mang qua
Sài Gòn năm 1879. 
Trên tháp bên phải treo 4 quả chuông (sol, do, rê, mi); tháp
bên trái treo 2 chuông (la, si). Trên mặt mỗi quả chuông đều có các họa tiết
rất tinh xảo. Tổng trọng lượng bộ chuông là 27.055kg tức khoảng 27 tấn, nếu
tính luôn hệ thống đối trọng(1.840kg) được gắn trên mỗi trái chuông thì tổng
trọng lượng của bộ chuông sẽ là 28.895kg.
Tên Khối lượng Đường kính miệng Vị trí
Đô 4315 kg 169 cm Tháp phải
2194 kg 145 cm Tháp phải
Mi 1646 kg 125 cm Tháp phải
Sol 8745 kg 225 cm Tháp phải
La 5931 kg 190 cm Tháp trái
Si 4184 kg 170 cm Tháp trái
Ba quả chuông to nhất là: chuông si
nặng 4.184kg, chuông la nặng 5.931kg và đặc biệt là chuông sol là một trong
những quả chuông lớn nhất thế giới: nặng 8.785 kg, đường kính miệng chuông
2,25m, cao 3,5m (tính đến núm treo). Chuông này chỉ ngân lên mỗi năm một lần
vào đêm Giao thừa Âm lịch.

 

 

Các chuông đều được điều khiển bằng điện từ bên dưới. Riêng ba
chiếc chuông lớn trước khi đánh đều được khởi động bằng cách đạp (vì quá nặng)
cho lắc trước khi bật công tắc điện. Vào ngày thường, thánh đường chỉ cho đổ
một chuông mi vào lúc 5 giờ sáng và đổ chuông re vào lúc 16g15. Vào ngày lễ và
chủ nhật, nhà thờ thường cho đổ ba chuông theo hợp âm Mi, Re và Do (đúng ra là
hợp âm ba chuông Mi, Do và Sol, nhưng vì chuông Sol qúa nặng nên thay thế bằng
chuông Re). Vào đêm Giao thừa thì mới đổ cả 6 chuông. Tiếng chuông ngân xa tới
10 km theo đường chim bay.

Đồng hồ

Bộ máy đồng hồ trước vòm mái cách
mặt đất chừng 15m, giữa hai tháp chuông được chế tạo tại Thụy Sĩ năm 1887, hiệu
R.A, cao khoảng 2,5m, dài khoảng 3m và ngang độ hơn 1m, nặng hơn 1 tấn, đặt nằm
trên bệ gạch. Dù thô sơ, cũ kỹ nhưng hoạt động khá chính xác. 
 
Để điều chỉnh
đồng hồ, phía sau máy có một chiếc đồng hồ to cỡ đồng hồ reo trong gia đình.
Chỉ cần theo dõi chiếc đồng hồ con này, có thể biết đồng hồ lớn chạy chậm,
nhanh, đúng hay sai giờ. Mỗi tuần phải lên giây đồng hồ một lần và chiếc cần để
lên giây đồng hồ giống như tay quay máy xe. Đồng hồ còn có hệ thống báo giờ
bằng búa đánh vào các chuông của nhà thờ, tuy nhiên đã không còn hoạt động do
dây cót quá cũ.

Công viên

 

Mặt trước thánh đường là một công viên với bốn
con đường giao nhau tạo thành hình thánh giá. Trung tâm của công viên là bức
tượng Đức Mẹ Hòa bình (hay Nữ vương Hòa bình). Tượng do nhà điêu khắc G.
Ciocchetti thực hiện năm 1959. Tên của tác giả được ghi trên tà áo dưới chân,
phía bên trái của bức tượng. Bức tượng cao 4,6m, nặng 8 tấn, bằng đá cẩm thạch
trắng của Ý, được tạc với chủ đích để nhìn từ xa nên không đánh bóng, vì vậy mà
toàn thân tượng, kể cả vùng mặt vẫn còn những vết điêu khắc thô. Tượng Đức Mẹ
trong tư thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu, trên trái địa cầu có đính cây
thánh giá, mắt Đức Mẹ đăm chiêu nhìn lên trời như đang cầu nguyện cho Việt Nam
và cho thế giới được hoà bình. Chân Đức Mẹ đạp đầu con rắn (mà hiện nay, đầu
con rắn đã bị bể mất cái hàm trên). Trên bệ đá, phía trước bức tượng, người ta
có gắn một tấm bảng đồng với hàng chữ Latinh:
“REGINA PACIS – ORA PRO NOBIS – XVII. II. MCMLIX”
Nghĩa là: NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH
– CẦU CHO CHÚNG TÔI – 17.02.1959
Phía dưới bệ đá, người ta đã khoét
một cái hốc chỗ giáp với chân tượng Đức Mẹ, trong đó có một chiếc hộp bằng bạc,
chứa những lời kinh cầu nguyện cho hoà bình của Việt Nam và thế giới. Những lời
cầu nguyện đó được viết lên trên những lá mỏng bằng những chất liệu khác nhau
như bằng vàng, bạc, thiếc, nhôm, giấy, da và đồng, được gởi tới từ nhiều miền
của Việt Nam, kể cả từ một số vùng ngoài miền Bắc.
Hàng năm, vào đêm Noel, hàng trăm
nghìn đồng bào và nam nữ thanh niên Công giáo hội tụ về đây mừng ngày Chúa
Giáng sinh./.

 

Trên trán tường cửa chính nhà thờ có dòng chữ Latin với ý nghĩa: “Thiên Chúa tối cao đã ban cho Đức Trinh Nữ Maria được ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội”.

Trên trán tường bên phải là câu đối tiếng Hoa: “Nhà thờ Thiên Chúa đầy ân đức – Thánh mẫu vô nhiễm nguyên tội”.

 

St