CHÚA SÃI_NGUYỄN PHÚC NGUYÊN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ĐÀNG TRONG 

Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên (1563 – 1635) là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở ngôi từ 1614 đến 1635) sau chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Trong thời gian ở ngôi chúa, ông đã xây dựng một vương triều độc lập ở Đàng Trong, từng bước ly khai khỏi chính quyền vua Lê – chúa Trịnh ở Đàng Ngoài.

1/.Thân thế:

_Nguyễn Phúc Nguyên là con thứ sáu của chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1525-1613) và một bà vợ họ Nguyễn. Ông sinh ngày 28 tháng 7 năm Quý Hợi, tức ngày 16 tháng 8 năm 1563.
_Nguyễn Phúc Nguyên là người đầu tiên trong dòng dõi chúa Nguyễn mang họ kép Nguyễn Phúc. Tương truyền lúc mang thai, thân mẫu ông chiêm bao thấy có vị thần đưa cho một tờ giấy trên có đề chữ “Phúc”. Lúc kể lại chuyện, mọi người chúc mừng bà và đề nghị đứa bé ra đời được đặt tên là “Phúc”. Nhưng bà nói rằng, nếu chỉ đặt tên Phúc cho đứa bé thì chỉ một mình nó hưởng, để cho nhiều người trong dòng họ được hưởng phúc, bà đề nghị lấy chữ này làm chữ lót. Và khi thế tử ra đời bà đặt tên là Nguyễn Phúc Nguyên.
_Trong các con của Nguyễn Hoàng, người con đầu là Nguyễn Hà, con thứ là Nguyễn Hán, con thứ ba là Nguyễn Diễn và con thứ tư là Nguyễn Thành đều đã mất sớm; người con thứ năm là Nguyễn Hải ở lại Bắc Hà làm con tin, chỉ còn Nguyễn Phúc Nguyên là người đủ khả năng và điều kiện để kế nghiệp cha.
_Năm 1585, khi mới 22 tuổi, Thế tử Nguyễn Phúc Nguyên đánh tan hai chiến thuyền của Nhật Bản đánh phá ở Cửa Việt. Chúa Tiên vui mừng khen rằng:”Con ta thực là anh kiệt”
Năm Nhâm Dần (1602), Nguyễn Phúc Nguyên được cử đến trấn thủ dinh Quảng Nam.
_Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên qua đời 19/11/1635, hưởng thọ 73 tuổi. Lăng mộ táng tại Sơn Phận, huyện Quảng Điền; sau cải táng về vùng núi Hải Cát, Hương Trà, Thừa Thiên. Tên lăng là Trường Diễn. Con trai ông là Nguyễn Phúc Lan lên kế nghiệp, tức Thượng vương.
***Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên có 11 công tử và 4 công nữ:

CÔNG TỬ;

1. Nguyễn Phúc Kỳ
2. Nguyễn Phúc Lan
3. Nguyễn Phúc Anh
4. Nguyễn Phúc Trung
5. Nguyễn Phúc An
6. Nguyễn Phúc Vĩnh
7. Nguyễn Phúc Lộc
8. Nguyễn Phúc Tứ
9. Nguyễn Phúc Thiệu
10. Nguyễn Phúc Vinh
11. Nguyễn Phúc Đôn

CÔNG NỮ:

1. Nguyễn Phúc Ngọc Liên: Tục gọi bà là Quận Thanh, bà hạ giá lấy Trấn Biên dinh Lưu thủ Phó tướng Thanh Lộc hầu Mạc Cảnh Vinh (Nguyễn Phước vinh), con trai Khai quốc công thần Mạc Cảnh Huống, hậu duệ của Mạc Đăng Dung, ông và bà lập ra hệ tính Nguyễn Hữu gốc Mạc, con cháu nay đổi họ Nguyễn Trường nhập tịch ở Quảng Nam. Ông bà sinh 1 con trai là Đội trưởng Toàn Trung hầu Nguyễn Phước Tao.
2. Nguyễn Phúc Ngọc Vạn (Tống Sơn quận chúa thụy Từ Hoan pháp hiệu Diệu Đức).
3. Nguyễn Phúc Ngọc Khoa
4. Nguyễn Phúc Ngọc Đỉnh (1608-1684): Bà hạ giá lấy Nghĩa quận công Nguyễn Cửu Kiều (1599-1656), con trai của Thượng tướng Nguyễn Quảng triều hậu Lê, bà sinh 5 con trai: 1.Vỵ Xuyên hầu Nguyễn Cửu Thiên, 2.Duyên Lộc hầu Nguyễn Cửu Duyên, 3.Trấn quận công Nguyễn Cửu Ứng, 4.Dực Đức hầu Nguyễn Cửu Kế, 5.Cẩm Long hầu Nguyễn Cửu Thân. Khi mất bà được ban thụy là Từ Thục. Ông và bà lập ra hệ tính Nguyễn Cửu.

2/.Xây dựng một vương triều độc lập, thoát ly hẳn sự lệ thuộc với triều đình vua Lê chúa Trịnh:

_Đây là mục tiêu số một của Nguyễn Hoàng khi quyết định vào Nam dựng nghiệp. Tuy nhiên do điều kiện và hoàn cảnh lúc đó, ông phải hết sức kín đáo để tránh mọi sự hoài nghi của chúa Trịnh. Trên danh nghĩa và cả trong thực tế, Nguyễn Hoàng vẫn phải giữ quan hệ lệ thuộc với chính quyền Lê- Trịnh, vẫn làm tướng tiên phong của Nam Triều đi đánh dẹp các dư đảng của nhà Mạc ở Sơn Nam, Hải Dương, Sơn Tây, Thái Nguyên… Cuối năm 1600, sau khi quyết định trở về ở hẳn Thuận Hoá, đẩy mạnh xây dựng chính quyền độc lập và không nghĩ đến việc quay trở về yết kiến vua Lê nữa, Nguyễn Hoàng vẫn phải giữ quan hệ hoà hiếu với chính quyền Lê- Trịnh, hàng năm vẫn phải nộp thuế má và xin kết nghĩa thông gia với Trịnh Tùng. Sự nghiệp xây dựng một vương triều độc lập của Nguyễn Hoàng tuy đã có cơ sở bước đầu nhưng vẫn còn hết sức mong manh. Đây chính là điều ông trăn trở nhất và cũng là sự uỷ thác cao nhất cho Nguyễn Phúc Nguyên trước lúc qua đời. Sách Đại Nam thực lục biên chép: “Chúa yếu mệt, triệu hoàng tử thứ sáu và thân thần đến trước giường, bảo thân thần rằng: Ta với các ông cùng nhau cam khổ đã lâu, muốn dựng lên nghiệp lớn. Nay ta để gánh nặng lại cho con ta, các ông nên cùng lòng giúp đỡ, cho thành công nghiệp”. Rồi chúa cầm tay hoàng tử thứ sáu dặn: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung; anh em trước hết phải thân yêu nhau. Mày mà giữ được lời dặn đó thì ta không ân hận gì”. Lại nói: “Đất Thuận Quảng phía bắc có núi Ngang (Hoành Sơn) và sông Gianh (Linh Giang) hiểm trở, phía nam ở núi Hải Vân và núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn) vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để chống chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời. Ví bằng thế lực không địch được, thì cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta” . 
_Thực hiện di chúc của cha, Nguyễn Phúc Nguyên đã từng bước ly khai hẳn với triều đình Lê- Trịnh, không chịu nộp thuế, không về chầu triều đình và đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của Trịnh Tráng vào năm 1627, mở đầu cho cuộc chiến tranh Trịnh- Nguyễn kéo dài 45 năm (từ 1627 đến 1672) với 7 chiến dịch lớn (trong đó có 6 cuộc quân Trịnh chủ động tấn công vào địa phận của chúa Nguyễn). Về hình thức thì đây là cuộc nội chiến ác liệt, kéo dài và không phân thắng bại, nhưng nếu xét theo mục đích của cuộc chiến tranh thì thất bại lại thuộc về chính quyền Lê- Trịnh. 
_Lâu nay có nhiều cách đánh giá khác nhau về cuộc nội chiến Trịnh- Nguyễn. Đương nhiên cuộc chiến tranh đã tiêu huỷ sức người, sức của, triệt phá đồng ruộng xóm làng và dẫn đến chia cắt đất đai thống nhất của quốc gia Đại Việt. Chúng ta không thanh minh, không bao biện cho các cuộc chiến tranh, nhất là các cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn, nhưng chúng ta cũng không đánh đồng các bên tham chiến. Hy vọng rồi đây cuộc nội chiến Trịnh- Nguyễn sẽ được nghiên cứu đầy đủ và kỹ lưỡng hơn, chúng ta sẽ có những đánh giá khách quan và chính xác về nó, nhưng trong điều kiện của tư liệu ngày nay, dưới cái nhìn toàn diện về vương triều chúa Nguyễn, chúng tôi tin rằng nhận định sau đây của GS.TSKH. Vũ Minh Giang là có sức thuyết phục: “Có thể nói việc Nguyễn Phúc Nguyên tìm mọi cách tách Thuận Quảng ra khỏi sự kiểm soát của chính quyền Lê- Trịnh không phải chỉ là hành động cát cứ phong kiến đơn thuần vì lợi ích của dòng họ Nguyễn. Nó còn phản ánh một ước nguyện muốn thực thi những chính sách cai trị khác với đường lối chính trị của Đàng Ngoài lúc đó đang theo xu hướng hoài cổ rập khuôn thời Lê sơ, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Về mặt khách quan việc làm của Phúc Nguyên có lợi cho xu thế phát triển của lịch sử dân tộc”. 
_Năm 1613 được lên ngôi chúa thì ngay năm sau, năm 1614, Nguyễn Phúc Nguyên quyết định bãi bỏ Đô ty, Thừa ty, Hiến ty theo thiết chế quân sự của hệ thống chính quyền nhà Lê. Tại Chính dinh, ông đặt ra ty Xá sai (coi việc văn án từ tụng, do Đô tri và Ký lục giữ), Tướng thần lại (coi việc trưng thu tiền thóc, phát lương cho quân các đạo, do Cai bạ giữ) và Lệnh sử (coi việc tế tự, lễ tiết và chi cấp lương cho quân đội Chính dinh, do Nha uý giữ). Bên cạnh đó còn các ty Nội Lệnh sử kiêm coi các thứ thuế, Tả Lệnh sử và Hữu Lệnh sử chia nhau thu tiền sai dư ở hai xứ về nộp Nội phủ. Tại các dinh ở ngoài, tuỳ theo từng nơi, có nơi Nguyễn Phúc Nguyên chỉ đặt một ty Lệnh sử, nhưng cũng có nơi đặt hai ty Xá sai và Tướng thần lại, có nơi kiêm đặt hai ty Xá sai và Lệnh sử để trông coi việc từ tụng của quân dân, sổ sách đinh điền và trưng thu thuế ruộng. 
_Đầu năm sau, năm 1615, các quy chế mới về chức trách và quyền hạn của các phủ, huyện được ban hành. Theo quy chế này thì Tri phủ, Tri huyện giữ việc từ tụng; các thuộc viên: Đề lại, Thông lại chuyên việc tra khám, Huấn đạo, Lễ sinh chuyên việc tế tự… Năm 1620, Nguyễn Phúc Nguyên lấy lý do chúa Trịnh vô cớ gây chiến đã quyết định chấm dứt hoàn toàn việc nộp cống thuế cho chính quyền Lê- Trịnh. Năm 1630, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã làm theo kế của Đào Duy Từ trả lại sắc của chúa Trịnh Tráng. Đây không chỉ là sự khẳng định dứt khoát chính quyền chúa Nguyễn ở phía Nam là chính quyền độc lập, cắt đứt hẳn mọi quan hệ lệ thuộc với chính quyền Lê- Trịnh ở phía Bắc, mà còn đánh dấu quá trình chuyển đổi căn bản từ một chính quyền địa phương, mang nặng tính chất quân sự của nhà Lê- Trịnh sang một chính quyền dân sự của chúa Nguyễn. Đặc biệt trong quan hệ đối ngoại, chúa Nguyễn Phúc Nguyên là vị chúa Nguyễn đầu tiên tự xưng là An Nam Quốc vương, quan hệ với các nước trong tư thế của một quốc gia độc lập có chủ quyền. GS. Kawamoto Kuniye cho rằng điều này đã “biểu lộ nhận thức quốc tế của chúa Nguyễn trước thời đại mới”. 
_Cải cách hành chính của Nguyễn Phúc Nguyên là cải cách có ý nghĩa then chốt, đặt cơ sở cho những bước tiến xa hơn và vững chắc hơn của triều đình chúa Nguyễn nói riêng và đất nước nói chung. 

3/.Chúa Sãi và sự thịnh vượng tột đỉnh của Đàng Trong:

Trong thời kì mới thành lập chính quyền Đàng Trong, các chúa Nguyễn đã dốc sức, tận lực cho công cuộc mở mang bờ cõi. Tiếp theo ý chí của người cha chúa Tiên – Nguyễn Phúc Nguyên đã chứng minh cho câu nói “Hổ phụ sinh hổ tử”. Ông đã làm nên một cuộc khuếch trương lãnh thổ vô cùng ngoạn mục, được nhân dân Đàng Trong tin yêu, gọi là chúa Sãi, chúa Bụt hay Phật chúa. 

3.1/.Người mang sứ mệnh lớn của dòng tộc:

Nguyễn Phúc Nguyên sinh năm 1563, là công tử thứ 6 của chúa Nguyễn Hoàng, sinh năm 1563. Ngay từ khi còn nhỏ ông đã tỏ ra là bậc thông minh, tài trí hơn người, và chữ “Phúc” trong tên của ông có ẩn chứa mong muốn của mẫu thân, rằng ông sẽ tạo phúc cho muôn dân. Trước khi Nguyễn Hoàng qua đời, đã căn dặn người con kế nghiệp này: “Nếu Bắc tiến được thì tốt nhất, bằng không giữ vững đất Thuận Quảng và mở mang bờ cõi về phía nam. Đất Thuận Quảng này phía bắc có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang, phía Nam có núi Hải Vân và Bi Sơn, thật là đất của người anh hùng dụng võ. Vậy con phải biết thương yêu dân, luyện tập binh sĩ để xây dựng cơ nghiệp muôn đời”.

3.2/.Những điểm nhấn trong sự nghiệp:

_Năm 1613, Nguyễn Phúc Nguyên chính thức lên kế vị. Dù vẫn cầm chừng với Đàng Ngoài, nhưng Chúa đã thực hiện một cuộc cải cách hành chính lớn, với mục đích tách hẳn khỏi chính quyền vua Lê – chúa Trịnh.
_Đầu năm 1615, Chúa Nguyễn cho ban hành các quy định mới về chức trách và quyền hạn của các phủ, huyện. Theo đó, Tri phủ, Tri huyện chuyên trách từ tụng; các thuộc viên: Đề lại, Thông lại đảm nhiệm việc tra khám, Huấn đạo, Lễ sinh chăm lo tế tự… Năm 1620, vịn vào lí do chúa Trịnh vô cớ gây chiến đã quyết định đoạn tuyệt hoàn toàn việc nộp cống thuế cho chính quyền Đàng Ngoài. Được Đào Duy Từ hiến kế, chúa Nguyễn Phúc Nguyên trả lại sắc của chúa Trịnh Tráng vào năm 1630. Đây là đòn giáng mạnh mẽ với lực lượng phía Bắc, đồng thời là dấu mốc cho bước chuyển đổi căn bản từ một chính quyền địa phương, đậm chất quân sự của vua Lê – chúa Trịnh sang một chính quyền dân sự của chúa Nguyễn. Tuyệt vời hơn nữa, trong quan hệ ngoại giao, Nguyễn Phúc Nguyên là vị chúa Nguyễn đầu tiên tự xưng là An Nam Quốc Vương, quan hệ với các nước trong tư thế của một người đứng đầu chính quyền độc lập.

3.3/.Mở rộng lãnh thổ:

_Có thể coi đây là công lao vĩ đại nhất của vị chúa này. Dựa trên tình hình thực tiễn, chúa Sãi đã lần lượt dùng các cuộc hôn nhân chính trị để thu về kết quả to lớn, đưa cương vực của chúa Nguyễn vượt ra khỏi Thạch Bi Sơn.
_Năm 1611, khi Chiêm Thành đánh ra phía bắc đèo Cù Mông (Bình Định), tướng Văn Phong được cử cất quân đánh chiếm vùng đất từ đèo Cù Mông tới Thạch Bi Sơn của Chămpa và đặt làm phủ Phú Yên. Nhờ công lao này, Văn Phong được chúa Nguyễn Hoàng giao cho trấn thủ vùng đất này.
_Năm 1620, khi quốc vương Chân Lạp muốn đặt quan hệ thông gia với chúa Nguyễn (vì muốn có đồng minh để đối trọng với Xiêm La), công nữ Ngọc Vạn đã trở thành Hoàng hậu của Chey chetta II. Nhờ cuộc hôn nhân này, với công lao to lớn của nàng Ngọc Vạn, vào năm 1623, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã thương lượng thành công với Quốc vương Chân Lạp Chey Chettha II, tiến hành lập hai th¬ương điếm là Prei Nokor (tên gọi cũ của Sài Gòn, ở vị trí tư¬ơng ứng với Chợ Lớn hiện nay) và Kas Krobey (vùng Bến Nghé xưa, ở vị trí tương ứng với Sài Gòn ngày nay) để thu thuế. Ngoài ra, dân xứ Đàng Trong được quyền di cư, sinh sống và tự vệ ngay tại mảnh đất Thủy Chân Lạp.
_Thế nhưng tướng Văn Phong khi xưa sinh lòng phản, kết thân với người Chăm kích động họ chống lại chúa Nguyễn vào năm 1629. Lúc này tân chúa cử phó tướng Nguyễn Phúc Vinh đem quân đánh dẹp, lập ra dinh Trấn Biên. Còn Lương Văn Chính chiêu tập lưu dân khai khẩn đất hoang lập ra nhiều thôn ấp của người Việt, sát nhập toàn bộ khu đất mới vào đất Đàng Trong, thành địa bàn căn bản của chúa Nguyễn.
_Không những thế, ngay từ đầu thế kỷ XVII, đã bắt đầu có những nhóm cư dân người Việt ở Thuận – Quảng đi thẳng vào khu vực Mô Xoài (Bà Rịa) và Đồng Nai (Biên Hoà) tiến hành khai khẩn đất hoang, lập ra những làng người Việt đầu tiên trên vùng đất Nam Bộ.
_Quay trở lại vấn đề người Chăm, lo ngại về việc họ luôn có tâm lý nổi dậy, lại có quan hệ thông thương mật thiết với Bồ Đào Nha, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên quyết định gả người con gái của mình, tên Ngọc Khoa cho Po Rome _ vua Chiêm Thành. Và cũng chính triều đại Po Rome đánh dấu bước suy thoái tột độ của đất nước này và vương quốc Chiêm Thành chính thức sụp đổ.
_Nguyễn Cư Trinh, nhà chiến lược phò tá Nguyễn Phúc Nguyên hoàn tất quá trình mở cõi Nam Bộ hồi giữa thế kỷ XVIII đã tổng kết rất chính xác rằng: “Đời trước lập Gia Định, tất trước mở xứ Mô Xoài, rồi mở xứ Đồng Nai, để cho quân dân hoàn tụ, rồi mới mở xứ Sài Gòn, thế là lấy ít đánh nhiều, lấn dần như tằm ăn” (trích Phủ Biên tạp lục của Lê Qúy Đôn).

3.4/.Mở rộng cánh cửa giao thương với nước ngoài:

_Đối với các nước châu Á, Nhật Bản là đối tượng số một mà chúa Sãi hướng tới. Thời kì này với những chính sách ưu đãi của chúa Nguyễn, các thương nhân Nhật Bản không chỉ đến để làm ăn, mà còn lấy vợ và định cư luôn ở Hội An. Mối quan hệ giao thương Việt – Nhật càng được gắn chặt khi người con gái nuôi – Ngọc Hoa của chúa Nguyễn Phúc Nguyên kết hôn với thương gia Nhật Bản- Araki Sotaro ở Nagasaki. Người con rể này có tên Việt là Nguyễn Thái Lang (do chúa đặt), vốn thuộc dòng dõi samurai ở Kumamoto đi thuyền mang cờ hiệu của công ty Đông Ấn Hà Lan VOC đến cập cảng Hội An vào năm 1619. Nguyễn Phúc Nguyên đã cho mở rộng thương cảng Hội An trở thành thương cảng chính của cả Đàng Trong lẫn Việt Nam, thậm chí là khu vực Đông Nam Á.
_Bên cạnh thuyền buôn Nhật Bản, thuyền buôn Trung Quốc, Đông Nam Á và nhất là thuyền buôn phương Tây cũng có cơ hội tương tự ở Hội An. Giáo sĩ Christoforo Borri, cho biết Chúa Nguyễn Phúc Nguyên “không đóng cửa trước một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở cửa cho tất cả người ngoại quốc, người Hà Lan cũng tới như những người khác, cùng với tàu chở rất nhiều hàng hoá của họ”. Và Hội An ngày đó trở thành một đô thị, cảng thị quốc tế tiêu biểu ở khu vực châu Á.
_Năm Tân Dậu (1620) quân Man thuộc Ai Lao cướp bóc ở biên thùy, Sãi vương sai quân đánh bắt, nhưng tha cho về nên làm người Man cảm phục, từ đấy họ không quấy nhiễu nữa.
_Về cuộc Nam tiến, Nguyễn Phúc Nguyên dùng chính sách hoà bình với Chăm Pa và Chân Lạp (Campuchia). Năm 1620, ông chấp nhận lời cầu hôn của quốc vương Chân Lạp là Chey Chetta II, gả con gái là Ngọc Vạn cho Chey Chettha. Theo ông Christoforo Borri, Chey Chetta đã xin chúa viện trợ vũ khí và quân đội để chống lại sự đe dọa của Xiêm La (Thái Lan). Trên thực tế thì Nguyễn Phúc Nguyên đã chuẩn bị vũ khí và mộ binh giúp vua Chân Lạp, cung cấp cho ông này thuyền chiến và quân binh để cầm cự chống Xiêm.
_Nhờ có sự giúp đỡ hiệu quả của Đàng Trong mà Chey Chetta đã tập tan nhiều cuộc xâm lược của quân Xiêm, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và nâng cao vị thế của Chân Lạp trong khu vực.
_Năm 1623, Nguyễn Phúc Nguyên chủ động đặt ra và thương lượng thành công với Chey Chettha II, lập 2 thương điểm (đồn thu thuế) là Kas Krobei bên bờ sông Sài Gòn (trước gọi là sông Bến Nghé) và Prei Nokor trên bờ rạch Bến Nghé hay kênh Tàu Hủ (gọi là rạch Sài Gòn – khu Chợ Lớn từ năm 1859), thuộc địa phận thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, để tiến hành thu thuế.

4/.Chiến tranh với quân Trịnh:

4.1/.Cuộc chiến đầu tiên 1627:

_Tháng 3 năm 1627, Thanh Đô Vương Trịnh Tráng đem 20 vạn đại quân thủy bộ vào nam, cùng với các tướng Nguyễn Khải, Lê Khuê chia làm hai đạo tiến vào, hội binh ở cửa Nhật Lệ. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cử các tướng Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Vệ và Nguyễn Phúc Trung đón đánh.
_Quân Trịnh chủ động tấn công nhưng không chọc thủng được tuyến phòng thủ của quân Nguyễn. Phía Nguyễn có lợi thế là đại bác kiểu Bồ Đào Nha nên làm quân Trịnh sợ chạy dạt. Hai tướng Trịnh là Nguyễn Khải và Lê Khuê đều thua chạy.
_Trong lúc hai bên tiếp tục giằng co thì tướng Nguyễn Hữu Dật phao tin ở miền Bắc, Trịnh Gia và Trịnh Nhạc mưu phản. Chúa Trịnh Tráng nghi ngờ vội rút quân về bắc.
_Năm 1630 Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên đã làm theo kế của Đào Duy Từ trả lại sắc cho vua Lê – chúa Trịnh.

4.2/.Cuộc chiến thứ hai 1633

_Quân Trịnh thu quân, Nguyễn Phúc Nguyên theo kế của Đào Duy Từ gấp rút xây lũy Trường Dục (lũy Thầy) để phòng thủ.
_Năm 1631 con trưởng của Sãi vương là Nguyễn Phúc Kỳ qua đời, con thứ hai là Nguyễn Phúc Lan được làm Thế tử, con thứ tư là Nguyễn Phúc Anh ra thay Kỳ trấn giữ Quảng Nam. Anh bất mãn vì không được lập làm thế tử, cho nên mưu thông đồng với chúa Trịnh, bèn viết thư hẹn làm nội ứng cho Trịnh Tráng.
_Năm 1633 Thanh Đô Vương khởi binh nam tiến lần thứ hai, đóng ở cửa Nhật Lệ như trước. Sãi vương cử Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến làm tướng ra đánh. Trịnh Tráng đang đợi suốt hơn 10 hôm không thấy hiệu làm nội ứng của Phúc Anh thì bị quân Nguyễn đánh úp, quân Trịnh hoảng loạn tan vỡ bỏ chạy. Thanh Đô Vương rút về bắc, để lại con rể là Nguyễn Khắc Liệt trấn thủ châu Bắc Bố Chính.

Theo Đna Thích
Bí ẩn Lăng Sọ và số phận bi thảm của thân phụ vị vua đầu tiên triều Nguyễn
Lăng Trường Diễn của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên
Chuyện về bức thư ngoại giao gửi quốc vương Nhật Bản từ hơn 400 năm trước -  Báo Công an Nhân dân điện tử
Bức thư Thụy Quốc Công Nguyễn Phúc Nguyên gửi cho Tokugawa Ieyasu.
Trên thư đóng dấu ấn triện Trấn thủ tướng quân chi ấn (鎮守將軍之印), cùng dòng chữ: An Nam quốc thiên hạ thống binh đô nguyên soái Thụy Quốc công (安南國天下統兵都元帥瑞國公).