Triều Nguyễn có 13 vua nhưng do các lý do kinh tế và chính trị nên chỉ có 7 khu lăng tẩm được xây dựng,tất cả đều còn lại đến ngày nay với các lối kiến trúc riêng.Đó là lăng của các vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị,Tự Đức, Dục Đức, Đồng Khánh và Khải Định.
Bố cục các lăng tẩm này đều được chia làm hai phần chính: phần lăng và phần tẩm.
_Khu vực lăng là khu vực chôn thi hài nhà vua.
_Khu vực tẩm là chỗ xây miếu, điện, lầu gác, đình… để vua lúc còn sống tới đây tiêu khiển.
Các lăng tẩm Huế được xây dựng từ khi vua còn tại vị nên đây không phải là chốn mộ địa u buồn mà có phong cảnh hữu tình với những chạm khắc tinh xảo, hài hòa với thiên nhiên.
Lăng Gia Long
Vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn yên nghỉ trong một không gian tĩnh lặng và đầy chất thơ. |
Lăng Gia Long (hay Thiên Thọ Lăng) được xây dựng từ năm 1814 đến năm 1820,nằm giữa quần thể núi Thiên Thọ thuộc xã Hương Thọ,huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên_Huế.Đây là nơi yên nghỉ của vua Gia Long (1762 – 1820),vị vua đầu tiên trong số 13 đời vua nhà Nguyễn.
Lăng Gia Long có chu vi hơn 11 nghìn mét, trước mặt có núi Đại Thiên Thọ làm tiền án,mỗi bên có 14 ngọn núi chầu vào tạo thành thế “tả thanh long” và “hữu bạch hổ”.Phần chính giữa là khu lăng mộ của vua và bà Thừa Thiện Cao Hoàng hậu.
Lăng nằm xuôi theo dòng sông Hương, quanh năm trong không khí mát lành.Lăng Gia Long là một bức tranh tuyệt tác về sự phối trí giữa thiên nhiên kiến trúc.
Lăng Minh Mạng
Sự uy nghiêm kiến trúc và khung cảnh cổ kính của lăng Minh Mạng |
Cách trung tâm thành phố Huế 12 km,nằm trên núi Cẩm Khê gần ngã ba Bằng Lãng,lăng Minh Mạng (hay Hiếu Lăng) là nơi yên nghỉ của vị vua thứ hai nhà Nguyễn.
Lăng Minh Mạng rộng 26ha,là một tổng thể kiến trúc quy mô gồm 40 công trình lớn nhỏ nằm trên một khu đồi núi,sông,hồ thoáng mát.Lăng được xây dựng từ năm 1840 đến năm 1843 thì hoàn thành.
Trước lăng có 3 cửa,chính giữa là Đại Hồng Môn (chỉ mở một lần duy nhất khi rước di thể của vua Minh Mạng nhập lăng),hai bên là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn.Bên trong Đại Hồng Môn có sân chầu,hai bên có hai dãy tượng đá tạc hình bá quan văn võ và voi,ngựa đứng chầu.
Lăng Thiệu Trị
Lăng Thiệu Trị đơn giản với cánh đồng và những vườn cây trái làm hàng rào bao quanh. |
Lăng Thiệu Trị nằm dựa lưng vào núi Thuận Đạo,thuộc làng Cư Chánh,xã Thủy Bằng,huyện Hương Thủy, cách thành phố Huế chừng 8 km.Đây là lăng có thời gian xây dựng ngắn nhất (hoàn tất trong 10 tháng) trong số 7 lăng của các vua Nguyễn và cũng là lăng duy nhất quay mặt về hướng Tây Bắc.
Lăng Thiệu Trị cũng không xây dựng La Thành (bức tường bao quanh bảo vệ) như lăng Gia Long hay dựa vào thế núi đồi tạo nên một la thành tự nhiên như Minh Mạng,La Thành của lăng là những đồng lúa,vườn cây xanh rờn,mang đến cho khu lăng vẻ thanh thoát,yên bình.
Lăng Tự Đức
Lăng Tự Đức là một trong những công trình đẹp nhất của kiến trúc thời Nguyễn. |
Tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc thôn Thượng Ba,xã Thủy Xuân,thành phố Huế,lăng Tự Đức (hay Khiêm Lăng) được xây dựng từ năm 1864 đến năm 1867 trên diện tích 475 ha.Gần 50 công trình trong lăng ở hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có chữ Khiêm trong tên gọi. Lăng mang yếu tố khoáng đạt,đường nét mềm mại phản ánh tâm hồn lãng mạn của vị vua thi sĩ này.
Ngoài mục đích là nơi chôn cất khi qua đời, đây còn là nơi vua đến nghỉ ngơi, đọc sách, ngâm thơ… nên cảnh quan của lăng tựa như một công viên rộng lớn với hồ nước thơ mộng,hàng thông xanh ngát.Đặc biệt phía trái điện Lương Khiêm có nhà hát Minh Khiêm để nhà vua xem hát, được coi là một trong những nhà hát cổ nhất của Việt Nam hiện còn bảo lưu.
Lăng Dục Đức
Lăng Dục Đức (hay An Lăng) tọa lạc ở phường An Cựu,thành phố Huế.Lăng xây dựng vào năm 1889 và là nơi an táng các vua Dục Đức,vua Thành Thái và vua Duy Tân.
So với lăng tẩm khác của các vua nhà Nguyễn,lăng Dục Đức có kiến trúc đơn giản và khiêm tốn.Khu lăng mộ có hình chữ nhật,diện tích 3.445 m²,bên trong không có Bi Đình và tượng đá như các lăng vua khác.Lăng lấy đồi Phước Quả làm tiền án,núi Tam Thai sau lưng làm hậu chẩm và dòng khe chảy vòng qua trước mặt làm minh đường tụ thủy.
Lăng Đồng Khánh
Mặt chính lăng Đồng Khánh |
Lăng Ðồng Khánh (hay Tư lăng) là nơi an táng vua Đồng Khánh thuộc thôn Thượng Hai,xã Thủy Xuân,thành phố Huế,nằm giữa khu lăng Thiệu Trị và lăng Tự Đức.Lăng được xây dựng qua 4 đời vua, kéo dài từ năm 1888 đến năm 1923,mang lối kiến trúc phong kiến truyền thống và chịu ảnh hưởng của kiến trúc Tây Âu.
Điện Ngưng Hy được coi là nơi bảo lưu bậc nhất nghệ thuật sơn mài nổi tiếng của Viêt Nam hài hòa cùng hệ thống cửa kính nhiều màu.Kiến trúc lăng mộ hầu như Âu hóa hoàn toàn, từ đặc trưng kiến trúc,mô típ trang trí đến vật kiệu xây dựng nhưng vẫn hòa hợp với phong cảnh thôn dã trong vùng.
Lăng Khải Định
Lăng Khải Định là công trình có giá trị về mặt kiến trúc và nghệ thuật với sự kết hợp kiến trúc giữa Đông và Tây. |
Trong số các lăng triều Nguyễn, lăng Khải Định hay còn gọi Ứng Lăng là công trình duy nhất có lối kiến trúc pha trộn giữa Đông và Tây.Đây là nơi yên nghỉ của vua Khải Định,vị hoàng đế thứ 12 của triều Nguyễn.Lăng tọa lạc trên núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê),thuộc xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy cách thành phố Huế khoảng 10km về phía Tây Nam.
Tuy có kích thước khiêm tốn hơn so với lăng của các vua tiền nhiệm nhưng lăng được xây dựng tỉ mỉ,kỳ công nên tốn nhiều thời gian cũng như kinh phí hơn các lăng khác (từ năm 1920_1930).Sử sách ghi lại để có kinh phí xây dựng lăng,vua Khải Định đã xin chính phủ bảo hộ cho phép ông tăng thuế điền 30% trên cả nước và lấy số tiền đó để làm lăng.
Điểm nổi bật của lăng Khải Định là sự pha trộn giữa nhiều trường phái kiến trúc khác nhau như Ấn Độ giáo,Phật giáo,Roman,Gothique…Đặc biệt,lăng Khải Định nổi tiếng với 3 bức bích họa “cửu long ẩn vân” tuyệt đẹp được trang trí trên trần của 3 gian nhà giữa trong cung Thiên Định,được coi là hoành tráng và có giá trị nhất tại Việt Nam.
Theo Đna Thích