Bắt đầu từ những thế kỷ đầu công nguyên, trên dải đất miền Trung – Việt Nam đã nảy sinh và phát sáng rực rỡ một nền văn hoá Chămpa độc đáo. Trong đó, vùng đất Quảng Nam với tên gọi xưa là
Amaravati, được các văn bia cổ nhắc đến như là trái tim của vương quốc Chămpa trong một giai
đoạn khá dài.

Bắt đầu từ những thế kỷ đầu công nguyên, trên dải đất miền Trung – Việt Nam đã nảy sinh và phát
sáng rực rỡ một nền văn hoá Chămpa độc đáo. Trong đó, vùng đất Quảng Nam với tên gọi xưa là
Amaravati, được các văn bia cổ nhắc đến như là trái tim của vương quốc Chămpa trong một giai
đoạn khá dài.
Năm 1898, một người Pháp tên là C Paris đã phát hiện khu đền tháp Mỹ Sơn nằm kín đáo trong
một thung lũng hẹp, giữa những khu rừng rậm rạp.Sau đó không lâu, những nhà khoa học của Viện
Viễn Đông Bác Cổ Pháp đã đến nghiên cứu các bia ký và công trình kiến trúc, điêu khắc ở Mỹ Sơn.
Cũng chính họ đã vén lên bức màn bí mật về Mỹ Sơn và cho thấy đây là khu di tích tôn giáo kỳ vĩ
nhất, đặc trưng nhất của người Chămpa, xây dựng liên tục trong suốt hơn 1000 năm. Được khởi
công từ thế kỷ 4 bởi vị vua Bhadravarman (trị vì từ năm 349 đến năm 361) và kết thúc vào cuối thế
kỷ thứ 13, đầu thế kỷ 14 dưới triều vua Jaya Simhavarman III (Chế Mân), Mỹ Sơn là một quần thể
với hơn 70 ngôi đền tháp mang nhiều phong cách kiến trúc, điêu khắc tiêu biểu cho từng giai đoạn
lịch sử của vương quốc Chămpa. Hầu hết các công trình kiến trúc, tác phẩm điêu khắc tại Mỹ Sơn
đều chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo. Ngoại trừ một vài tháp quay về hướng Tây hoặc cả hai hướng
Đông – Tây, các đền tháp phần lớn quay về hướng Đông – hướng mặt trời mọc, chỗ trú ngụ của
thần linh. Thể hiện tư tưởng hướng về thế giới bên kia của các vị vua sau khi chết được phong thần
và để tỏ lòng hoài niệm tổ tiên.

Do thiên tai, địch họa và sự tàn phá của bom đạn chiến tranh, đến nay Mỹ Sơn chỉ giữ lại được
khoảng gần 20 tháp. Tuy nhiên, tất cả tài liệu bia ký, kết quả khảo cổ, dấu tích vật chất còn lưu lại
tại Mỹ Sơn và một số bảo tàng trong nước như bảo tàng Chămpa Đà Nẵng, bảo tàng lịch sử thành
phố Hồ Chí Minh … cũng đủ làm cho chúng ta vô cùng thán phục về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc
và trang trí của người Chămpa cổ xưa. Đặc biệt, cho đến nay kỹ thuật kết dính vật liệu không có
mạch hồ trong việc xây dựng đền tháp ở Mỹ Sơn vẫn là một bí ẩn luôn kích thích sự tìm tòi, nghiên
cứu và đam mê khám phá của các nhà khoa học cũng như đối với mỗi chúng ta.
Không đồ sộ, kỳ vĩ như Ăngkor (Campuchia), Pagan (Myanma), Borobudua (Indonesia)… nhưng
Mỹ Sơn vẫn có một vị trí rất quan trọng trong nền văn hóa nghệ thuật của vùng Đông Nam Á. Tháng
12 năm 1999 khu đền tháp Mỹ Sơn đã được UNESCO ghi tên vào danh mục các di sản văn hoá
thế giới
Ngày xưa, lãnh thổ Vương quốc Chămpa trải dài từ Đèo Ngang- Quảng Bình đến Bình Thuận ngày
nay. Chămpa có 2 bộ lạc: bộ lạc Dừa ở phía Bắc, từ Thừa Thiên đến đèo Cù Mông. Còn bộ lạc Cau
từ Cù Mông vào đến Bình Thuận. Từ hai bộ lạc này đã hình thành đã hình thành những tiểu quốc
đầu tiên rồi sau đó vương quốc Chămpa ra đời. Về kinh tế, người Chăm sống chủ yếu dựa vào
nông nghiệp. Họ còn biết cách khai thác hương liệu, trầm hương, hồ tiêu, quế để xuất khẩu ra nuớc
ngoài. Qua biết bao thăng trầm của lịch sử, vào thế kỷ thứ IV, dưới triều vua Bhahadravarman, đã
cho xây dựng kinh đô ở Trà Kiệu, cách đây khoảng 28 km về phía Đông. Sau khi kinh đô đã được
xây dựng xong, ông nghĩ ngay đến việc thành lập trung tâm tôn giáo phục vụ cho kinh đô đó. Mỹ
Sơn từng chứng kiến những thời kỳ hưng thịnh, rực rỡ cũng như những biến động của vương quốc
Chămpa cổ đại. Mỹ Sơn không phải là kinh đô mà là thánh địa của Chămpa , thờ đấng linh thiêng
tối cao. Theo quan niệm Ấn Độ giáo, nơi thờ cúng phải là nơi thâm nghiêm. Vì lẽ đó mà Mỹ Sơn đã
được xây dựng giữa một thung lũng được bao bọc bởi núi non hiểm trở. Amaravati, tên gọi xưa
của vùng Quảng Nam- Đà Nẵng được văn bia nhắc đến như trái tim của vương quốc Chămpa trong
nhiều thế kỷ. Mỹ Sơn là một thung lũng rất thâm nghiêm, người Chăm cho đây là mảnh đất thiêng,
ngọn núi Đại Sơn (Mahabavata) cũng là một ngọn núi thiêng. Con suối Mỹ Sơn cũng được xem là
con suối thiêng mà dòng suối này là nhánh đổ ra sông Thu Bồn.
Kinh đô Trà Kiệu thất thủ khi người Chăm sử dụng nơi đây làm nơi trấn ngự. Từ những yếu tố này
người Chăm cho xây dựng đền thờ đầu tiên vào cuối thế kỷ thứ IV bằng gỗ ở Mỹ Sơn để thờ thần
Sisana Bhahadravana. Tên thần là sự kết hợp của tên các vị vua lúc bấy giờ là Bhahadravaman và
thần Siva. Sau vị vua này, các vị vua khác lên ngôi và tiếp tục cho xây dựng đền tháp. Trước hết là
thờ cúng thần linh, thứ hai là muốn tỏ uy quyền của mình. Dần dần từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ XIII
Mỹ Sơn trở thành một quần thể gồm khoảng 70 công trình kiến trúc lớn nhỏ. Sau này các nhà
nghiên cứu đã phân thành 12 nhóm. Cuối thế kỷ thứ XIII, do 2 bộ lạc Cau và Dừa không thống nhất
với nhau về quyền lợi cũng như phong tục tập quán. Trong nước đã xảy ra nội chiến. Cũng thời
điểm này, các nước láng giềng như Trung Hoa, Việt Nam, Khmer đã tiến hành các cuộc chiến tranh
với Chămpa. Chính vì những lý do đó người Chăm đã dời kinh đô xuống phía Nam ở vùng Bình
Thuận ngày nay. Sau thế kỉ thứ XIII, Mỹ Sơn hầu như bị bỏ hoang, không ai xây dựng đền đài cũng
như tiếp tục thờ cúng ở Mỹ Sơn.Mãi đến sau 1898, di tích Mỹ Sơn được phát hiện bởi một học giả
người Pháp tên là M.C Paris. Vào những năm đầu thế kỷ 20 này, 2 nhà nghiên cứu của Viễn thông
Pháp là L.Finot và L.de Lajonquière và nhà kiến trúc sư kiêm khảo cổ học H. Parmentier đã đến Mỹ
Sơn để nghiên cứu văn bia và nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Chăm. Lúc bấy giờ vào khoảng 50
công trình kiến trúc, nhưng trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, Mỹ Sơn lại nằm trong địa bàn ném
bom, cho nên bom đã phá huỷ phần lớn các kiến trúc. Hiện còn khoảng 20 di tích trong tình trạng
không còn nguyên vẹn. Tiền thân của quần thể kiến trúc Mỹ Sơn cổ kính này, theo văn bia để lại là
một ngôi đền làm bằng gỗ để thờ thần Siva Bhadravarman. Nhưng đến khoảng cuối thế kỷ 6, một
cơn hoả hoạn đã thiêu cháy ngôi đền gỗ. Bức màn lịch sử đã được các nhà khoa học vén dần lên
thông qua những bia ký và lịch sử nhiều triều đại xưa cho ta thấy Mỹ Sơn là vùng đất tâm linh quan
trọng nhất của dân tộc Chăm suốt từ cuối thế kỷ 4 đến thế kỷ 15. Bằng vật kiệu gạch nung và đá
sa thạch, trong nhiều thế kỷ người Chăm đã dựng lên một quần thể kiến trúc đền tháp độc đáo, liên
hoàn: Đền chính thờ Linga-Yoni biểu tượng của năng lực sáng tạo. Bên cạnh tháp chính (Kalan) là
những tháp thờ nhiều vị thần khác hoặc thờ những vị vua đã mất.
Một tháp chính, một tháp cổng và một nhà đón khách hành hương gọi là nhà tịnh tâm. Tháp chính
luôn ở vị trí trung tâm (C1), bởi nó là biểu tượng của trung tâm vũ trụ- nơi hội tụ thần linh. Những
tháp phụ biểu tượng cho các lục địa, những châu lục. Ở Ấn Độ, người ta đào chung quanh những
công trình này những rãnh sâu biểu tượng cho đại dương. Ở đây chúng ta không thấy chi tiết đó.
Ảnh hưởng thứ hai là các tháp xây 3 tầng, biểu hiện cho 3 thế giới: dưới là thế giới trần tục, tầng
giữa là thế giới tâm linh, tầng trên cùng là thế giới thần linh. Hướng các tháp mang các ý nghĩa như
sau: phần lớn các tháp có cửa quay về hướng Đông, người Chăm quan niệm hướng Đông là hướng
tốt nhất hướng của thần linh. Nhưng cũng có nhiều tháp quay về hướng Tây như khu A, E, F là để
thờ ông bà tổ tiên. Hướng Bắc đem đến của cải vật chất cho vương quốc Chămpa. Tháp hướng
Bắc để thờ thần tài lộc. Riêng hướng Nam các nhà nghiên cứu chưa tìm được ý nghĩa của nó.
Việc xây dựng tháp Chàm bằng những viên gạch đỏ chồng khít lên nhau không thấy mạch hồ khiến
hình thành nên những huyền thoại cho rằng: Người Chăm xây tháp bằng gạch mộc, dẻo gọt nó lên,
rồi nung một khối tháp trong ngọn lửa khổng lồ. Các chuyên gia Ba Lan khẳng định rằng người
Chăm đã dùng gạch nung sẵn gắn với nhau bằng vữa đất sét và sau đó toàn bộ tháp được nung
lại. Một số nhà nghiên cứu cho rằng người Chăm đã dùng keo chiết từ thực vật (nhựa xương rồng
và mật mía hoặc nhựa cây dầu rái) để dán những viên gạch với nhau. Những nghiên cứu gần đây
cho thấy người Chăm đã sử dụng kết hợp một số biện pháp kĩ thuật khác nhau để xây tháp: dùng
các viên gạch có độ lõm ở mặt tiếp xúc, khi xây lên không thấy vữa ở giữa các viên gạch còn ở
giữa có lớp vữa dày; mài các viên gạch trong nước cho thật khít nhau rồi xếp lại cho bột gạch tự
kết dính nhau trong sức nặng của trọng lực của phần trên tháp; dùng các viên gạch có mặt lõm mặt
lồi theo kiểu âm dương, khi xếp lên tự thân nó liên kết với nhau. Sự tinh tế của tháp Chàm còn thể
hiện ở vô số hình chạm khắc tỉ mỉ, trau chuốt do nghệ nhân đục đẽo trên tường tháp. Việc đục đẽo
phải thực hiện chính xác tuyệt đối, tường gạch đã xây sẵn không thể vì một lỗi nhỏ mà phải phá đi
xây lại. Hoàn toàn chính xác khi H.Parmetier nhận xét rằng người Chăm chạm gạch như chạm gỗ,
đẽo đánh ư đẽo gỗ.

CÁC NHÓM THÁP CHÍNH Ở MỸ SƠN

Nhóm tháp B:
Tháp B1: biểu tượng của núi Mêru, là trung tâm vũ trụ, nơi tập trung các vị thần. Tháp có thờ thần
Siva. Có một cửa ra vào, các ô quanh tường là nơi thắp đèn cầy.
Tháp B3: thờ thần Skanda-thần chiến tranh.
Tháp B4: thờ thần Ganesa- con thần siva, có đầu voi mình người. Đây là thần may mắn và hạnh
phúc.
Tháp B5: quay về hướng Bắc, thờ thần Kover, thần tài lộc. Tháp cũng là nơi giữ đồ hành lễ.
Tháp B6: bên trong có một hồ nước thánh dùng trong các nghi lễ.
Tháp B2: là tháp cổng đối diện với tháp chính.
Kế nữa là nhà tĩnh tâm, nơi các người đi hành lễ tĩnh tâm, chuẩn bị cho nghi lễ.
Xung quanh B1 có nhiều miếu phụ. Mỗi miếu phụ thờ một vị thần: thần mặt trời,
Kubera…mỗi vị thần giữ một hướng bảo vệ tháp chính. Những tháp đó ngày nay không còn, chỉ còn
lại B7.
Nhóm tháp A:
Tháp A1: Đỉnh cao của nghệ thuật Chămpa vào thế kỉ thứ V, sau thế kỉ thứ X thì nghệ thuật Chămpa
càng bị mai một. Tháp A1 cao 24m, cao nhất ở Mỹ Sơn đá xây tháp được lấy cách đó khoảng 15km.
Người ta cho rằng người Chăm đã dùng sức vật để kéo đá dọc theo bờ suối. Tháp A1 có hai cửa
Đông và cửa Tây. Ở trung tâm tháp có Linga lớn nhất Mỹ Sơn, không biết lí do gì mà Linga bị khiêng
ra ngoài.
Linga có ba phần: phần trụ ở trên cùng tương ứng với thần Siva- huỷ diệt chưa hoàn thiện để sáng
tạo cái mới (Cách nhận biết Siva: vai đeo rắn, ngồi trên Yoni hay cưỡi thần bò Nandin). Góc tháp
có những con sư tử bảo vệ tháp. . Phần bát giác ở giữa tượng trưng cho thần Vishnus- thần bảo
tồn. Phần hình vuông ở dưới tượng trưng cho Brahma- thần sáng tạo. Linga nay tượng trưng cho
tam vị nhất thể. Trong các văn bia người ta thấy nhắc đến Siva nhiều hơn cả.
Nhóm tháp G:
Nhóm G này được xây dựng vào thế kỉ thứ XIII. Ở nhóm tháp này người Chămpa đã dùng chất liệu
mới để xây tháp là đá ong. Xung quanh tháp có trang trí những mặt nạ thần Kala- thần thời gian.
Bốn góc tháp có hình bốn con sư tử bảo vệ cho tháp.
Nhóm tháp E và F:
Là nhóm tháp muộn nhất. Hiện không còn gì nhiều, có hai pho tượng; giữ thần cửa – hộ pháp
Dravabala, thần bò Nandin. Nhóm tháp này hiện nay chỉ còn hai tháp và một cái Mukha Linga.
Cuộc hành hương của người chăm
Ngày xưa người ta xây dựng đền thờ Chăm không phải phục vụ cho mọi đối tượng mà chủ yếu là
phục vụ cho tầng lớp vương quyền, quý tộc Chăm lớp tu sĩ Bàlamôn. Những người này đi từ kinh
đô Trà Kiệu đến đây trong những nhà tịnh tâm, chuẩn bị cho nghi lễ. Để chính thức vào buổi lễ, họ
phải đi ngang qua tháp cổng. Tháp có chức năng như biên giới giữa cuộc đời và thế giới ảo, giữa
tâm linh và trần tục. Sau khi qua tháp cổng, đoàn hành hương ghé vào tháp B6 để lấy nước thánh
rồi đến tháp B1. đi một vòng từ trái sang phải cầu cho quốc thái dân an và tưới một ít nước thánh
lên Linga, nước sẽ qua khe rãnh của Yoni chảy xuống đất. Người Chăm cho rằng nước này xuống
đất sẽ làm cho đất đai phì nhiêu thêm. Văn bia được người Chăm viết bằng chữ Sankrit. Đây là
những tài liệu vô cùng quý giá cho các nhà nghiên cứu văn hoá Chămpa. Ngày nay người Chăm
cũng có chữ viết nhưng đã hoàn toàn khác xưa và những người có thể đọc văn bia này không còn
ai nữa.

*** đứng tại Mỹ Sơn thuyết minh chúng ta không nên dùng cụm từ “Thánh địa Mỹ Sơn nhé ACE”

P/s: Mỹ Sơn là thánh địa Ấn Độ giáo của Vương quốc Chămpa. Mỗi vị vua, sau khi lên ngôi, đều đến
Mỹ Sơn làm lễ thánh tẩy, dâng cúng lễ vật và xây dựng đền thờ. Theo mình goi là Khu đền tháp Mỹ
Sơn để tránh động chạm đến thần linh ở nơi đây, người ta thường nhắc nhở du khách, ” Không để lại
gì ngoài những dấu chân – Không mang đi ngoài những bức ảnh ”