Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Ai đã một lần đến Quy Nhơn chắc chắn sẽ không thể không đến thăm nơi an nghỉ cuối cùng của nhà thơ Hàn Mặc Tử, nhắc đến Hàn Mặc Tử tất phải nói đến thành phố Quy Nhơn là nơi ông đã sống thời niên thiếu vui tươi và thời đau khổ nhất về cuối cuộc đời.,
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, tên thánh Francois, sinh ngày 22/9/1912 tại Đồng Hới, Quảng Bình. Hàn Mặc Tử có duyên với 4 chữ Bình: sinh tại Quảng Bình, làm báo Tân Bình, có người yêu ở Bình Thuận và mất tại Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa, ông cố là Phạm Chương vì liên quan quốc sự gia đình bị truy nã nên người con trai Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên-Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh; sinh ra ông Nguyễn Văn Toản, ông Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con của cụ Nguyễn Long, ngự y có danh vào thời vua Tự Đức), sinh hạ được 8 người con: 1-Nguyễn Bá Nhân (tức nhà thơ Mộng Châu) cũng là người dìu dắt Hàn Mặc Tử trên con đường thơ văn, 2- Nguyễn Thị Như Lễ, 3-Nguyễn Thị Như Nghĩa, 4-Nguyễn Trọng Trí (tức nhà thơ Hàn Mặc tử), 4-Nguyễn Bá Tín (người dời mộ Hàn Mặc Tử từ Quy Hòa về Ghềnh Ráng vào ngày 13-2-1959), 6-Nguyễn Bá Hiếu, 7-Nguyễn Văn Hiền và 8-Nguyễn Văn Thảo.
Vì cha Hàn Mặc Tử lúc đó làm chủ sự thương chánh thường đi công cán nhiều nơi, chịu ảnh hưởng bởi nghề nghiệp của cha nên Hàn Mặc Tử cũng theo gia đình đi nhiều nơi từ lúc nhỏ. 1920 di chuyển theo gia đình học tiểu học Sa Kỳ; 1921-1923 học Quy Nhơn, Bồng sơn; 1924 chuyển Sa Kỳ; 1926 thân sinh Hàn Mặc Tử bị bệnh rồi mất tại Huế vì điều kiện đó mẹ Hàn Mặc Tử đưa các con vào Quy Nhơn để lập nghiệp.
Năm 1927 bài thơ đầu tiên của Hàn Mặc Tử được ra đời “Vội vàng chi lắm” họa lại của nhà thơ Mộng Châu; 1928 ra Huế học Trường Trung học Pellerin; 1930 thôi học về Quy Nhơn, đạt giải nhất thơ trong cuộc thi thơ Thi xã tổ chức; 1931 thơ văn nổi danh với bút hiệu Phong Trần được cụ Phan Bội Châu chủ nhân Thi xã Mộng Du họa thơ và đề cao; được hội nhà Tây Du giới thiệu du học nước ngoài, nhưng vì bọn mật thám biết Hàn Mặc Tử có liên lạc với cụ Phan Bội Châu nên đã gạch tên trong danh sách du học.
Năm 1932 bước vào đời làm việc đầu tiên ở Sở Đạc điền Quy Nhơn và cũng năm ấy người yêu đầu tiên là Hoàng Thị Kim Cúc-người gốc Huế sinh năm 1913 (vì Hàn Mặc Tử tính tình nhút nhát rụt rè nên chỉ dám bày tỏ tình yêu qua thơ). Kim Cúc bị tai nạn giao thông tại thành phố Hồ Chí Minh ngan ỳ 11/8/1988, nằm bệnh viện Chợ Rẫy 12 ngày đêm, đưa về Huế và mất vào ngày 3/2/1989. Có thể nói đám tang của bà lớn nhất ở Huế từ xưa tới nay bởi vì bà là Phó ban hướng dẫn Trung ương gia đình Phật tử Việt Nam.
Năm 1935 vào Sài Gòn làm báo, cộng tác trang văn thơ báo Công Luận và Tân thời, yêu người thứ hai là Mộng Cầm-người gốc Quảng Ngãi, sinh năm 1917 khi đó đang sống ở Phan Thiết; những năm làm báo ở Sài Gòn Hàn Mặc Tử thường ra Phan Thiết và đi chơi cùng Mộng Cầm ở Mũi Né cách thành phố Phan Thiết 22 km về hướng đông. Cuối năm 1936, Hàn Mặc Tử thấy mình có bệnh nhưng chưa xác định là bệnh phong nên chia tay Mộng Cầm trở về Quy Nhơn chữa trị. Hiện nay Mộng Cầm còn sống ở tuổi 89 (1917-2006) với một người con gái ở Bình Chánh-TP. Hồ Chí Minh và người con gái ở Phan Thiết.
Năm 1936 Hàn Mặc Tử ra tập thơ “Gái quê”; 1937 Mai Đình-người gốc Thanh Hóa, sinh năm 1919 đọc tập thơ Gái quê và đem lòng yêu người; năm 1939 trong lúc Hàn Mặc Tử bệnh tật, Mai Đình có ra Quy Nhơ thăm nuôi. Năm 1940 Hàn Mặc Tử mất và năm 1941Mai Đình lại ra Quy Nhơn thăm mộ Hàn Mặc Tử lần đầu, đến năm 1995 ra Quy Nhơn thăm mộ Hàn Mặc Tử lần cuối cùng. Bà ra tập thơ “Đôi hồn” họa các bài thơ của Hàn Mặc Tử, Mai Đình mất năm 1999 tại TP. Hồ Chí Minh, thọ 80 tuổi. Cùng thời gian này Hàn Mặc Tử còn quen Ngọc Sương-người Quảng Ngãi, sinh năm 1914 là dì ruột của Mộng Cầm và chị ruột của nhà thơ Bích Khê, mất năm 2002 tại TP. Hồ Chí Minh, thọ 89 tuổi. Tuy nhiên hai mối tình Mai Đình và Ngọc Sương không đi sâu vào lòng Hàn Mặc Tử như Mộng Cầm.
Vào cuối đời, bệnh tình Hàn Mặc Tử ngày càng nặng, những người yêu chia xa, Hàn Mặc Tử bị đau khổ về mặt tinh thần lẫn thể xác; vì vậy nhà văn Trần Thanh Địch muốn an ủi bạn mình lúc đau khổ bằng cách giới thiệu cho Hàn Mặc Tử một người yêu thơ Hàn có tên là Trần Thương Thương-người Huế, sinh năm 1924, cháu gọi Trần Thanh Địch bằng chú ruột. Những bức thư tình của Trần Thương Thương gửi Hàn Mặc Tử hoàn toàn do Trần Thanh Địch tự phác họa ra lamg Hàn Mặc Tử cứ ngỡ mình đang có người yêu thực sự. Từ đó khoái cảm về mặt tinh thần mà sáng tác ra những vần thơ nổi tiếng là Cẩm Châu Duyên và kịch Quần Tiên Hội. Ngày 20/9/1940 bệnh tình Hàn Mặc Tử ngày càng nặng, vì vậy người anh rể, chồng chị Nguyễn Thị Như Lễ lúc đó làm y tá bệnh viện Quy Nhơn đưa vào Bệnh viện Phong Quy Hòa. Sau 52 ngày đêm chữa trị thì qua đời vào ngày 11/11/1940. Khi Hàn Mặc Tử mất không được gặp những người thân, chỉ có các soeur, các bác sĩ và một người anh em đồng bệnh là Nguyễn Văn Xê chăm sóc và an táng tại Quy Hòa. Trong những năm tháng cuối đời Hàn Mặc Tử có sáng tác một bài văn xuôi “Sự trong sạch tâm hồn” bằng tiếng Pháp, đó là bài thơ cuối cùng của nhà thơ để cảm tạ những vị đã chăm sóc và chữa trị ông tại Quy Hòa.
Để tưởng nhớ một nhà thơ lớn của Việt Nam, nơi an táng đầu tiên tại Quy Hòa, hiện nay được ca sĩ Nhật Trường (tức nhạc sĩ Trần Thiện Thanh) và một số văn nghệ sĩ TP. Hồ Chí Minh dựng đài tưởng niệm với hình tượng là cây viết và quyển sách để thương tiếc, tưởng nhớ nhà thơ tài danh bạc mệnh Hàn Mặc Tử. Đồng thời tại phòng nằm chữa trị tại Quy Hòa của Hàn Mặc Tử nay cũng được làm phòng lưu niệm nhà thơ. Năm 1959, bạn thân của Hàn Mặc Tử là nhà thơ Quách Tấn cùng gia đình Hàn Mặc Tử cải táng mộ về Ghềnh Ráng-Quy Nhơn. Ngôi mộ Hàn Mặc Tử hiện nay đang nằm trên đỉnh cao Ghềnh Ráng, chung quanh núi non hùng vĩ, biển trời xanh ngát xa xa nhìn về TP. Quy Nhơn chạy dài theo bãi cát vàng giữa trăm ngàn màu thủy thọ thật thích hợp với hồn thơ. Hàn Mặc Tử ra đi ở lứa tuổi thanh xuân (28 tuổi), nửa đời người chưa qua hết nhưng ông đã làm tròn sứ mệnh của mình là để lại cho nền văn học Việt Nam chúng ta một đời thơ rất giá trị, có những bài được đưa vào chương trình văn học như “Đây thôn Vỹ Dạ”, “Mùa xuân chín”…
(Còn nữa)