Cung An Định ở Huế là nơi mà hoàng hậu cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam đã nhiều lần rơi nước mắt.
Sông An Cựu dài hơn 30 cây số, là một chi lưu nổi danh của sông Hương, đã mang theo dòng chảy của mình những tố chất “di truyền” về tâm cảnh lẫn màu nước từ dòng sông mẹ. Vì thế cần nói về sông Hương trước.
Tính từ nguồn ra biển, sông Hương chỉ dài khoảng 100 cây số, nhưng “kích thước lịch sử” của con sông này lại lớn hơn rất nhiều lần con số ấy bởi các biến cố lịch sử trọng đại xảy ra ở đôi bờ. Về vị trí phong thủy, sông Hương được chọn làm Minh đường của Kinh thành Huế, là nơi “trăm dòng hợp phái, vạn nhánh quy về” (bách xuyên hợp phái – vạn hác triều tông) như Vua Thiệu Trị ca ngợi. Có thể tham khảo thêm sách địa lý của Tả Ao tiên sinh: “Trường thủy sở dẫn, trường sơn sở tòng, chân thị đại quý chi địa” (Nước dài dẫn lối, núi dài chạy theo, thực là đất đại quý).
Học giả Cao Trung bình luận: “Khi nước chảy chiều nào thì sơn mạch đi chiều đó nên gọi là nước dài dẫn lối. Đó là điều kiện nước tốt. Nếu có dãy núi dài dài đi theo nước dài nữa là điều kiện tốt thứ hai. Nếu huyệt kết ở núi dài theo sông dài và sông dài dẫn núi dài thì chắc là cho huyệt kết lớn. Trái lại chỉ có một dòng nước nhỏ dẫn lối và một chi sơn nhỏ đi theo thì chỉ là tiểu địa”. Đã có những đất đại quý được các nhà địa lý chọn xây lăng mộ cho các vua Nguyễn.
Cũng có ngọn đồi thiêng của vương triều như đồi Hà Khê, hoặc núi Ngọc Trản bên dòng sông Hương. Ngay cả màu nước sông Hương cũng được Quốc sử quán triều Nguyễn nhắc đến: “Hồi đầu quốc triều ta, nước sông Hương đã chuyển sang màu đỏ và đục ngầu trong biến cố năm Giáp Ngọ 1774” – là năm tướng Hoàng Ngũ Phúc từ phía Bắc kéo quân Trịnh tràn vào đánh chiếm Thuận Hóa, đẩy chúa Nguyễn chạy lánh về đất phương Nam.
Rồi cũng dòng Hương giang ấy lại xanh trong tuyệt vời vào “mùa hè năm Tân Dậu 1801 lúc đại binh (của Chúa Nguyễn Phúc Ánh) tái chiếm lại thành đô – thiên hạ đều cho nước sông đổi màu là điềm thái bình vậy” (Đại Nam nhất thống chí).
Trên đoạn chảy qua khu vực kinh thành về phía hữu ngạn (bờ nam sông Hương) có sông An Cựu, được hình thành sau những chuyến Vua Gia Long xa giá đến vùng Thanh Thủy xem xét địa thế, đoán định về phong thủy và triệu các vị phụ lão địa phương đến hỏi việc lợi hại khi đào sông mới. Ai nấy đều đồng tình. Vua sai đào sông dẫn nước tưới cho hàng ngàn vạn mẫu ruộng đất bị ngập mặn năm 1814 (Gia Long thứ 13) và làm đập ngăn nước mặn ở cửa Thần Phù.
Nhờ thế mà vùng đất nam sông Hương khởi sắc, thuận lợi cho việc gieo cấy, trồng trọt. Chính vì kết quả như vậy nên sau này Vua Minh Mạng đặt tên sông là Lợi Nông và sai khắc hình ảnh của sông vào Cửu đỉnh (Chương đỉnh). Tuy vậy, dân chúng kinh thành Huế vẫn quen gọi tên cũ của sông là An Cựu.
Cung An Định nằm bên bờ sông An Cựu ấy – một nhánh của sông Hương với màu nước có “một chút gì trúc trắc”, tựa những mối tình chợt đổi màu theo nắng mưa, mà ca dao ghi lại:
Núi Ngự Bình trước tròn sau méo
Sông An Cựu nắng đục mưa trong
Vì thầy mẹ bên anh lắng đục tìm trong
Nên duyên chàng nợ thiếp cứ long đong rứa hoài…
Được xây bên một dòng sông như thế, nên cung An Định dường như cũng “đẫm buồn” theo và là nơi Nam Phương hoàng hậu đã nhiều lần rơi nước mắt.
Người chứng kiến những giọt lệ đầu tiên của Nam Phương là ông Phạm Khắc Hòe, trong câu chuyện được kể dưới đây. Nguyên sau ngày đọc Chiếu thoái vị vào trưa 30/8/1945, cựu hoàng Bảo Đại nhận được công điện từ Hà Nội gửi vào mời ông làm Cố vấn tối cao cho chính phủ Hồ Chí Minh, ông nhận lời và sắp xếp ra Hà Nội.
Vào 6 giờ sáng 2/9, ông Phạm Khắc Hòe cùng Bộ trưởng Lê Văn Hiến đến cung An Định: “Xe chúng tôi đã vào đậu ngay trước phòng khách mà trong cung vẫn tối mò mò, im phăng phắc – chỉ nghe có tiếng gõ mõ niệm Phật từ trên lầu vọng xuống”. Lát sau Hoàng hậu Nam Phương trong sắc phục màu xanh da trời, từ trong nhà đi ra cùng con trai là Bảo Long và ba con gái là Phương Mai, Phương Liên, Phương Dung. Cựu hoàng Bảo Đại “tới hôn vợ, hôn các con với những lời âu yếm bằng tiếng Pháp, đây là lần đầu tiên trong đời mình, ông Vĩnh Thụy đi xa mà không ai tiễn đưa ngoài vợ con”.
Nam Phương với sắc mặt buồn “đưa tay trái lên cổ sửa lại sợi dây vàng đeo thánh giá lấp trong áo, tay phải cầm mùi xoa lau nước mắt” trong tiếng mõ tụng kinh của bà Từ Cung (mẹ Bảo Đại) từ “trên lầu vọng xuống đều đều buồn bã”. Cựu hoàng “khóe mắt hơi ướt, nhưng miệng vẫn mỉm cười, bế Phương Dung lên hôn một lần nữa, rồi bỗng nói to: Thôi đi”. Bà Nam Phương mở to mắt “nhìn theo như muốn níu ông chồng lại, nhưng ông này không quay lại”…
Ra đến Hà Nội, cựu hoàng ở tại biệt thự dành riêng cho Cố vấn Chính phủ số 51 đại lộ Gambetta, tức số 51 Trần Hưng Đạo sau này. Chính ở đó, khoảng 10 ngày sau, khi ông Phạm Khắc Hòe đến thăm vào một đêm trăng đẹp, bỗng thấy “trên đầu cầu thang có một người đàn bà đang bước rất nhanh”.
Ông chạy theo, nhưng lên đến gác thì “chỉ còn phảng phất mùi nước hoa” của người đàn bà đó – vũ nữ Lý Lệ Hà. Những lần sau cũng vậy, mỗi khi ghé lại biệt thự của cựu hoàng, lần nào ông Hòe cũng gặp những người hào nhoáng đi ra đi vào trong phòng khách và từ đó vọng ra “tiếng mạt chược lọc cọc, tiếng cười nói ầm ĩ, có cả tiếng đàn bà” nữa.
Vào một buổi trời vừa sập tối, bất ngờ Bảo Đại tự lái xe đến chỗ ở của ông Hòe nói: “Hôm ra đi, tui chỉ mang theo có một nghìn bạc, nay tiêu hết cả rồi. Tui muốn nhờ ông về Huế đưa cái thư này cho Ngài Hoàng (tức Hoàng hậu Nam Phương) lấy một ít tiền đưa ra cho tui”.
Cầm thư về Huế, ông Hòe đến trước cung An Định vào 8 giờ rưỡi sáng mà “tòa nhà này vẫn không có một cánh cửa nào mở, sân ngập lá rụng, tường mốc rêu xanh, tôi bấm chuông và lên tiếng gọi mấy lần, trong nhà vẫn im phăng phắc, không ai trả lời”.
Định quay về, ông chợt thấy Hoàng hậu Nam Phương từ phía Bến Ngự xuống… Vào phòng khách, bà Nam Phương mở bức thư viết bằng chữ Pháp trên ba trang giấy màu xanh ra xem. Xong, bà ngẩng đầu lên “nhìn tôi với hai giọt nước trong suốt trong đôi mắt, môi bà run run như muốn nói một điều gì (…) Bà đứng vụt dậy, trào nước mắt ra…”.
Chiều hôm sau, ông Hòe quay lại cung An Định lúc 16 giờ, bà Nam Phương đã có mặt chờ sẵn ở phòng khách với “bộ mặt buồn thiu, nhưng vẫn cố làm ra vẻ bình tĩnh” – để rồi vào câu chuyện ngay sau đôi lời hỏi han: “Tôi muốn ông cho biết tất cả sự thật về việc ông Vĩnh Thụy mê con Lý.” Ông Hòe trả lời rất tiếc là mình không biết rõ chuyện ấy, chỉ nghe người ta nói cựu hoàng “có mèo tên là cô Lý”.
Bà Nam Phương chăm chú hỏi: “Ông có biết con Lý nhiều không? Và con ấy người như thế nào?” Ông Hòe đáp chưa thấy mặt bao giờ, song nghe đồn cô ấy đẹp. Tiếng “đẹp” làm hoàng hậu “đỏ mặt lên ngay”. Sau đó, dù cảm thấy khó xử, ông Hòe cũng đề xuất với Hoàng hậu Nam Phương rằng bà nên đưa con cái và bà Từ Cung ra sống ở Hà Nội cùng Cố vấn Vĩnh Thụy để hạn chế vấn đề trai gái của cựu hoàng. Bà không trả lời ông Hòe ngay.
Qua lần gặp gỡ ấy, ông Hòe nhận định: “Tôi thấy bà biết rất rõ mọi mặt sinh hoạt của ông Vĩnh Thụy ở Hà Nội – điều ấy bà Vĩnh Thụy chỉ có thể đạt được qua một mạng lưới săn tin và thông tin thành thạo và trung thành với bà. Tất nhiên, những tin tức càng cụ thể bao nhiêu, càng làm cho bà đau khổ, uất ức bấy nhiêu.”
Bà Nam Phương trong một chuyến đi cùng triều đình.
Trong lần gặp tiếp theo, Nam Phương đã rút hai tờ bạc Ngân hàng Đông Dương loại 500 đồng giơ lên cho ông Hòe thấy rồi “bỏ trở lại vào giữa những tờ giấy màu hồng đặc sệt chữ Pháp dán lại” đưa cho ông Hòe. Bà cũng nhắc đến đề xuất của ông Hòe ở lần gặp trước: “Ông Hòe này! Tôi cũng muốn ra Hà Nội để vợ chồng, con cái cùng ở với nhau cho hạnh phúc. Nhưng tôi ngại hai điều: một là sẽ làm tốn kém thêm cho Nhà nước trong lúc Chính phủ đang còn nghèo, lo trăm chuyện; hai là làm cho Hoàng đế đang vui sướng trở thành đau khổ, gò bó. Thôi! Tôi đành chịu đựng riêng một mình để cho người ta vui sướng.”
Chẳng biết hoàng hậu viết gì trong thư gửi cho Cố vấn Vĩnh Thụy. Sau khi thư đến tay cựu hoàng, thì ngày 16/3/1946 (khoảng sáu tháng sau khi ra Hà Nội), cựu hoàng sang Trung Quốc, sau đó qua Hồng Kông cùng người đẹp Lý Lệ Hà – để lại Hoàng hậu Nam Phương với nỗi lòng chua xót ở cung An Định xa vời…
Biết rõ mối quan hệ thắm thiết của chồng mình với cô Lý, Hoàng hậu với tư thế của một “người chị” đã viết một bức thư gởi “em Hà” mà hơn 50 năm sau Lý Lệ Hà vẫn còn giữ, với nội dung như sau: “Em Lý Lệ Hà thân quý! Chị ở xa đức cựu hoàng hàng mấy vạn dặm trùng dương, nhưng chị biết rằng em đang hết lòng hết sức chăm sóc cựu hoàng ở Hồng Kông. Chị cầu mong lịch sử mai đây không buông rơi cựu hoàng, còn gặp lại nhau. Đức Từ Cung thái hậu và chị trọn kiếp nhớ ơn em. Chị, Nam Phương”.
———————
Trích sách “Nam Phương – hoàng hậu cuối cùng”
Tác giả Lý Nhân Phan Thứ Lang