QUẬN LONG BIÊN
1. Chùa Ái Mộ (Thiên Định tự) ở số 31 đường Ngọc Thụy, p. Ngọc Lâm, q. Long Biên. 
Chùa Ái Mộ được thành lập từ rất sớm, nhưng chưa ai rõ đích xác là ở thời điểm nào. Chỉ biết chùa đã được trùng tu tôn tạo nhiều lần, nhờ các tấm bia đá còn sót lại, ta biết năm Cảnh Hưng thứ 33 (1772) đã tu sửa lại toàn bộ ngôi chùa; năm Cảnh Hưng thứ 44 (1783) trùng tu tòa thượng điện,..Chùa còn 18 tấm bia, 2 quả chuông
2. Chùa Bắc Biên (Phúc Xá tự) còn gọi chùa An Xá, ở ngõ 293 Ngọc Thụy, p. Ngọc Thụy, q. Long Biên.
Chùa có ít nhất từ TK 17, là ngôi chùa của làng Bắc Biên có gốc là ngôi chùa của làng An Xá vốn tọa lạc trong thành Đại La trước khi Lý Thái Tổ từ Hoa Lư ra đây lập kinh đô Thăng Long. Năm 1010 dân làng dời nhà cửa và cả chùa ra bãi giữa sông Hồng để nhường chỗ cho vua xây cung điện. Năm 1893 ngôi chùa lại chuyển sang tả ngạn do sông Hồng đổi dòng. Nhưng bờ sông vẫn cứ bị xói lở nên đến năm 1920 chùa phải dời sâu vào chân đê. 
Do vị trí địa lý biến đổi nên tên chùa cũng thay đổi từ An Xá sang Cơ Xá rồi Phúc Xá và nay gọi theo tên làng ngụ cư là Bắc Biên. Ngoài việc thờ Phật, chùa Bắc Biên còn thờ Thái úy triều Lý là Lý Thường Kiệt, vị anh hùng dân tộc quê tại làng An Xá.
Lễ hội: 03/6
3. Chùa Bắc Cầu 2 (Long Đọi tự) ở tổ 36, cụm Bắc Cầu 2, p.Ngọc Thụy, q. Long Biên.
Chưa rõ chùa được xây dựng năm nào, chỉ biết chùa được trùng tu vào năm 1844.
Tại khu vực Phật điện gồm các lớp tượng:
– Lớp thứ nhất là Tam Thế Phật. 
– Lớp thứ hai là Di Đà Tam tôn (Quan Thế Âm, A Di Đà, Đại Thế Chí). 
– Lớp thứ ba là Hoa nghiêm tam Thánh (Văn Thù,  Thích Ca, Phổ Hiền). 
– Lớp thứ tư là Quan Âm Chuẩn Đề, Thích Ca sơ sinh, Di Lặc. 
– Lớp thứ năm là Nam Tào, Ngọc Hoàng, Bắc Đẩu. 
– Lớp thứ sáu là tòa Cửu Long Thích Ca sơ sinh, phía ngoài tiền đường là ban thờ Đức Ông, bên phải đặt ban thờ Đức Thánh Tăng.
4. Chùa Bắc Cầu 3 (Thuận Lợi tự) ở tổ 35 p. Ngọc Thụy, q. Long Biên
Theo các cụ cao tuổi trong làng thì trước kia chùa được dựng ở chỗ khác, đến năm 1892, chùa được chuyển về vị trí hiện nay và đã được trùng tu nhiều lần sau đó.
5. Chùa Bổ Đề (Thiên Sơn tự hay Thiên Cổ tự) ở tổ 2, p. Bồ Đề, q. Long Biên. 
Chùa ra đời ít nhất cũng từ TK 16 và được trùng tu nhiều lần. Lần gần đây là năm 1986, chùa được trùng tu nhà Tổ, hậu liêu, nhà khách, nhà tăng nhà bếp cũng như khu vực nhà ở của hơn 50 cô nhi đang được nuôi dạy tại chùa. Năm 1999, chùa tiếp tục xây lầu bát giác và tôn trí tượng Bồ Tát Quan Thế Âm cao 3,2m. Hiện nay, chùa là mái ấm tình thương dành cho các em bé mồ côi, cơ nhỡ.
6. Đền Chầu hay Đền Chầu Bà  năm sát mép sông Hồng ở cạnh chùa Bồ Đề, q. Long Biên. 
Đền Chầu được xây dựng trên một khu đất cao, rộng, thoáng mát liền sát sông Hồng, cạnh chùa Bồ Đề, q. Long Biên. Qua đó có thể suy ra Đền Chầu được khởi dựng từ TK 15. Đền Chầu là một trong những điểm tâm linh nổi bật của Hà Nội về Đạo Mẫu Tứ phủ Việt Nam. Đền còn thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và công chúa Liễu Hạnh.
7. Đình Cự Đồng thuộc thôn Cự Đồng, xã Thạch Bàn, huyện Gia Lâm, nay thuộc tổ 1 p. Thạch Bàn, q. Long Biên. Đình Cự Đồng còn có tên là đình Đông Lâm hay Cự Linh.
Chưa có tư liệu cho biết đình Cự Đồng được khởi dựng khi nào mà chỉ nói là được khởi dựng từ rất sớm. Tuy nhiên các hiện vật của đình này đều thuộc TK 18-19.
Thờ danh tướng Thành Công Tương Liệt Đại vương, đã được Hai Bà Trưng phong cho thực ấp ở địa bàn huyện Gia Lâm.
Đình Cự Đồng còn thờ bà Quế Hoa công chúa họ Đặng. Theo truyền thuyết dân gian ở địa phương thì Quế Hoa công chúa là chị em với Quỳnh Hoa công chúa được thờ tại đình Sài Đồng, p. Phúc Đồng (đình Sài Đồng hiện không thờ vị công chúa này).
Lễ hội: 10-12/02
8. Đền Ghềnh (Thiên Quang Linh từ) thuộc tổ 2, p. Bồ Đề, q. Long Biên (ngay mép sông Hồng gần cầu Chương Dương)
Cho đến nay, trong dân gian vẫn lưu truyền sự tích đền Ghềnh gắn với số phận bi thương của công chúa Ngọc Hân, Bắc cung Hoàng hậu của vua Quang Trung.
Nhà Nguyễn lên ngôi đã tìm cách tận diệt những người có liên quan đến triều đại Tây Sơn. Bà Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền, xót phận con gái Ngọc Hân sau khi mất, vẫn phải gửi thân xác ở Phú Xuân – Huế nên đã tìm cách “bí mật” đưa được hài cốt Bắc cung Hoàng hậu nhà Tây Sơn về an táng tại quê nhà (làng Nành, Gia Lâm)*.
Không ngờ đến đời vua Minh Mạng có người đã đem việc “ngụy hậu” Tây Sơn vẫn đang được “mồ yên mả đẹp”. Triều đình Huế ra lệnh lập tức đào mồ quật mả Ngọc Hân lên, san đất thành bình địa còn xương cốt thì đem vứt xuống sông.
Hài cốt mẹ con Ngọc Hân bị đổ xuống sông Hồng thuộc địa phận làng Ái Mộ. Thương xót Bắc cung Hoàng hậu tài hoa bạc mệnh, nhân dân Ái Mộ lập miếu thờ bà chính nơi bờ sông vớt được hài cốt. Dòng sông bên lở, bên bồi; ít lâu sau, ngôi miếu nhỏ cũng bị lũ cuốn trôi. Đến năm 1858, cụ Ðặng Thị Bản đã công đức để tôn tạo đền chùa ở Ái Mộ, Lâm Du, Phú Viên. Năm 1872, đền lại bị giặc Pháp đốt sạch trong cơn binh lửa đánh Thành Hà Nội. Dốc lòng với việc nghĩa, bà lại đi quyên góp xây lại đền.
Để tránh nhà Nguyễn phát hiện, trả thù, tượng Ngọc Hân công chúa được thờ kín bên trong sau sáu lớp thờ thần thánh khác…
Trong cung còn đôi câu đối ca ngợi Lê Ngọc Hân:  Sơn Nhạc chung linh, Lê thị chí kim lưu tự điển/Phong vân trường lộ, Nhĩ Hà dĩ bắc ngật sùng từ (Núi Nhạc linh thiêng, gương bà họ Lê truyền ghi sử sách/Sóng gió lặng yên, đền dựng to cao đẹp bến sông Hồng).
Trải bao phen binh lửa, can qua, đền Ghềnh vẫn được con cháu cụ Ðặng Thị Bản trông nom và dân làng gìn giữ đến ngày nay.
Lễ hội: 06/8
  Tư liệu chỉnh lý và bổ sung    
a) Chỉnh lý: Sự kiện phát giác việc thờ “ngụy hậu” không phải xảy ra vào thời Minh Mạng mà vào thời Thiệu Trị năm thứ 2, tháng 7 được chép trong Đại Nam thực lục chính biên tập 24 đệ tam kỷ 2, tr.183-184 q.22 như sau: “Tỉnh Bắc Ninh có dân xã Phù Ninh thờ ngụy quỷ (Nguyên người xã ấy là Nguyễn Thị Huyền làm cung nhân của vua Lê Hiển Tông có người con gái là Ngọc Hân sau gả cho ngụy Huệ sinh được 1 trai, 1 gái cũng đều chết non cả. Khoảng năm đầu Gia Long, ngụy 
đô đốc tên là Hải ngầm đem hài cốt mẹ con Ngọc Hân từ Phú Xuân về táng trộm ở ở địa phận xã Phù Ninh. Thị Huyền ngầm sai xây mộ, dựng đền, khắc bia giả dối, đổi họ tên để làm mất dấu tích. Tới đây, việc ấy phát giác  vua sai hủy đền thờ, đào bỏ hài cốt kẻ ngụy đi”. 
b) Bổ sung
: Như trên đã thấy người đã mang hài cốt 3 mẹ con công chúa Ngọc Hân từ Huế ra Bắc là “ngụy đô đốc Hải”- tức là đô đốc nhà Tây Sơn. Điều chúng tôi có thể khẳng định là trong hàng ngũ tướng lĩnh của nhà Tây Sơn không có ai tên là Hải cả. Chúng tôi có thông tin từ họ Ngô p. Bình Thạnh, TP.Quy Nhơn (họ của Đại tư mã Ngô Văn Sở) cho biết ngày trước ông Ngô Xuân Thọ thân sinh nhà thơ Xuân Diệu nhân cùng chi 5 họ Ngô Trảo Nha, cứ mỗi kỳ nghỉ hè, không phải dạy học, ông đều đến Bình Thạnh rượu chè hàn huyên với các cụ bô lão trong họ. Ngô Xuân Thọ có lần nói với cụ Ngô Đình Xuyên rằng mộ Ngô Văn Sở là ở Bắc Ninh. Nếu vậy thì người mang hài cốt 3 mẹ con bà Ngọc Hân ra Bắc chẳng ai khác ngoài Ngô Văn Sở. Đến triều Nguyễn, Gia Long sợ rằng nếu thông tin Ngô Văn Sở trốn thoát sẽ hết sức nguy hiểm vì ai cũng biết rõ tài năng quân sự của viên Đại tư mã này, nên đã bịa ra chuyện, Ngô Văn Sở bị dìm chết dưới sông để trấn an dân chúng. Dẫu sao đó cũng chỉ là suy đoán.

 

Đn Ghnh th Ngc Hân công chúa

9. Đình, Chùa Gia Quất (Sùng Phúc tự) ở ngách 29/94 Thượng Thanh, p. Thượng Thanh, q. Long Biên.
éChùa được khởi dựng vào cuối triều Lê. Năm 1972, trận bom B52 của đế quốc Mỹ đã phá huỷ toàn bộ các công trình nhà cửa, ruộng vườn, công trình văn hóa của vùng đất Thượng Thanh, trong đó có các công trình kiến trúc của chùa Sùng Phúc. Các công trình kiến trúc của chùa hiện nay là sản phẩm của đợt trùng tu lớn vào những năm gần đây.
éĐình Gia Quất ở tại Tổ dân phố số 04, p. Thượng Thanh, q. Long Biên.
Đình được xây dựng vào khoảng năm 1671, thờ ba vị thành hoàng gồm:
1. Đức Cao Sơn Thượng Đẳng Thần.
2. Đức Minh Trụ tức Lý Uy Công Thượng Đẳng Thần.
3. Đức Minh Khiết tức Lý Vũ Công Thượng Đẳng Thần.
Lễ hội: 08-09/02
10. Đình, Chùa Gia Thụy ở p. Gia Thụy, q. Long Biên nằn trong ngõ 564 Nguyễn Văn Cừ.
é Đình chưa rõ đình được khởi dựng khi nào. Năm 1972 đình bị máy bay B52 của Mỹ ném bom phá hủy. Về sau, nhân dân địa phương đã tổ chức quyên góp và cho dựng lại theo lối cũ, khu Mộ Tổ cũng được tu sửa khang trang. 
Thờ 4 vị tướng của An Dương Vương là 4 anh em: Trung Thành, Đông Lương, Thông Vĩnh và Quý Nương. Ba anh bị Triệu Đà truy đuổi, tuẫn tiết. Quý Nương ôm xác các anh đặt xuống giếng Bưởi, rồi nhảy xuống đó tự tử. Không bao lâu mối đùn lên một cây đa có tán lá xòe rộng che lấy gò. Để tưởng nhớ công lao quên mình đánh giặc cứu nước của 4 anh em, dân làng Gia Thụy đã suy tôn họ làm Thành hoàng làng, lập đình thờ hương khói quanh năm và coi gò giếng Bưởi là gò Mộ Tổ.
Lễ hội: 10/02
é Chùa Thiên Ứng Phúc Lâm tự ở ngay bên cạnh cùng nằm trong một khuôn viên khá rộng với đình với nhiều cây xanh mát.
11. Đình Gia Thượng  thuộc Tổ dân phố số 20 p. Ngọc Thụy, q. Long Biên. 
Đình được khởi dựng vào khoảng cuối thời Lê Trung Hưng nằm ngoài bãi đê hữu ngạn sông Đuống.
Thờ 5 vị Thần hoàng: Linh Lang Đại vương, Cao Sơn Đại vương,  Giang Khẩu Đại vương, Minh Trụ Đại vương, Minh Khiết Đại vương.
12. Đình, Chùa Hội Xá thuộc tổ 1, p. Phúc Lợi, q. Long Biên nằm bên bờ phía nam sông Đuống.
é Chùa Hội Xá (Linh Tiên tự) được khởi dựng vào TK 18. Đình và chùa Hội Xá được xây dựng trên cùng một khuôn viên, diện tích khoảng 6.000m2 . Theo niên đại ghi trên bia đá và các pho tượng tại tòa tam bảo thì chùa có niên đại khoảng TK 18. Hiện trong chùa còn lưu giữ nhiều di vật có giá trị gồm 30 pho tượng lớn nhỏ.
Thờ Thánh Gióng, cùng tướng Hoàng Hổ – một lãnh binh trong đạo quân của làng Hội Xá đã theo Phù Đổng đánh giặc Ân và  Nguyễn Nộn ở cuối thời Lý. 
é Đình Hội Xá ở Đường đê Vàng, p. Phúc Lợi, q. Long Biên.
Có lẽ đình Hội Xá cũng được khởi dựng cùng chùa Hội Xá vào TK 18?
Thờ Thành hoàng Hoàng Hổ, vị tướng đã dẫn đội Ải Lao Hội Xá sang hội quân với Thánh Gióng ở làng Phù Đổng bên kia sông Đuống để cùng đánh giặc Ân.
13. Đình Kim Quan ở th. Kim Quan, nay là tổ 4  p. Việt Hưng, q. Long Biên. 
Đình được khởi dựng vào cuối thời Lê Sơ (1428-1527).
Thờ Phò mã Lê Đạt Chiêu thời Lê Hiển Tông, có công di dân nghèo khai phá lập làng và viên quan Trịnh Đồ giỏi phong thủy. Đình còn thờ 2 vị nữ thánh là Thiên Tiên Đạo Hoa và Hạ Tiên Phương Dung (sư tổ nghề ca trù). Vị thần chính là Linh Lang.
14. Đình, Đền, Chùa Lâm Du  nằm trong quần thể các di tích lịch sử văn hóa cổ kính ven sông Hồng nằm sát nhau, ngay mặt phố Phú Viên, tổ 1,  p. Bồ Đề,  q. Long Biên. 
éChùa Lâm Du (Nguyệt Quang tự) là một ngôi chùa cổ, đã hình thành trên 3 thế kỷ.  Hệ thống tượng tròn gồm 31 pho tượng Phật, 1 tòa Cửu Long, 22 pho tượng Mẫu, 6 pho tượng Tổ, 1 pho tượng Hậu, trong đó có tượng Tam thế, Di Đà Tam tôn và tượng Liên Hoa, là những pho tượng mang đặc trưng phong cách tạo tác thời Lê TK 17-18. 
éĐình Lâm Du nằm bên phải chùa Lâm Du,  được xây dựng từ rất sớm, trên 3 thế kỷ và được tu bổ tôn tạo 5 lần từ 1773 đến 1893.
Thờ Đức Thánh Linh Lang có công với nước. Đức Linh Lang này là con bà Chính cung Minh Đức Hoàng hậu với vua Trần Thánh Tông (1258-1278). .
(xem giải trình ở Đình Nhật Tân).
éĐền Lâm Du tọa lạc trong một không gian rộng, quy hoạch mặt bằng hình chữ Đinh. 
Đền thờ Tứ phủ, theo tín ngưỡng Đạo Mẫu.
15. Đình, Chùa Lệ Mật nay thuộc p. Việt Hưng, q. Long Biên
 éChùa Lệ Mật (Cổ Giao tự) tương truyền được dựng lên từ thời Lý. Tuy nhiên, nhiều khả năng là niên đại của chùa có liên hệ mật thiết với niên đại của chiếc cổng tam quan, được xây vào thời kỳ cuối Lê, đầu Nguyễn, tức là TK 18, 19.  Hiện nay, chùa đang bị xuống cấp nghiêm trọng,  đất chùa ngày càng bị thu hẹp lại, có nguy cơ bị mất thêm đất để xây trường Mẫu giáo.
é Đình ở th. Lệ Mật, phố Việt Hưng, p. Việt Hưng, q. Long Biên.
Chưa thấy tư liệu thành  văn nào cho biết ngôi đình được dựng khi nào. Nhưng theo tấm bia đá còn lưu trong đình thì đã từng có một đợt trùng tu lớn vào TK 16. Từ đó có thể suy đoán đình Lệ Mật được khởi dựng vào thời gia ấy. Sau đó đến năm 1670 dưới đời vua Lê Huyền Tông (1662-1671), Đại nguyên súy Trương Phúc Bảo đã cúng tiền, gỗ, sắt và tổ chức đại tu. Về sau ngôi đình đã nhiều lần được tiếp tục tôn tạo và mở rộng. Gần đây bước sang thiên niên kỷ thứ ba đình lại có một cuộc đại trùng tu mới.
Đình thờ Hoàng Đức Trung, có công vớt công chúa nhà Lý, được vua cho 13 trại phía tây Thăng Long để chiêu tập dân bản trang và lân cận đến khai phá.
Đình Lệ Mật còn thờ vị thành hoàng làng là người đã dạy dân Lệ Mật nghề bắt rắn. 
Lễ gội: 20-24/3
16. Đình, Chùa Mai Phúc ở số 231 Nguyễn Văn Linh, p. Phúc Đồng, q. Long Biên 
é Chùa Mai Phúc (Minh Tông tự) được xây dựng vào TK 17, có 2 tấm bia cổ ghi lại điều đó.
éĐình Mai Phúc ở th. Mai Phúc, p. Gia Thụy, q. Long Biên.
Hiện nay ở Mai Phúc có 2 ngôi đình. Một ngôi  ở tổ dân phố số 5 và một ngôi nằm bên trong TPTCS Phúc Đồng.
Đình Mai Phúc được xây dựng trên nền của ngôi đền từ thời Đinh Tiên Hoàng. 
Thờ 2 anh em Lê Xuân Vinh và Lê Xuân Nương, có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân.
Đặc biệt, đình còn có quyển thần tích gồm 12 lá đồng thau nặng 5,7 kg khắc năm 1920, thuật về sự kiện của đình năm 1737.
17. Đền Mẫu Bắc Biên ở số 21, tổ dân phố số 9, p. Ngọc Thụy, q. Long Biên, nằm sát sông Hồng.
Chưa xác định được chính xác năm khởi dựng ngôi đền, nhưng căn cứ vào đa số các di vật, đồ thờ của đền có niên đại TK 20.
Đền Mẫu Bắc Biên thờ Mẫu theo tín ngưỡng dân gian Việt Nam
18. Đình, Chùa Ngọc Lâm ở số 201 Nguyễn Văn Cừ, p. Ngọc Lâm, q. Long Biên.
éĐình Ngọc Lâm (Đình Cầu Cá) tọa lạc trên một khu đất cao, rộng, thoáng mát, liền kề với chùa Ngọc Lâm.
Đến nay, tuy chưa có sử liệu khẳng định niên đại khởi dựng, nhưng qua những tư liệu lưu tại đình thì có thể sơ bộ đoán định đình Ngọc Lâm được khởi dựng vào thời Lê sơ TK 15.
Theo hồi ức của các cụ và các tài liệu thu thập tại địa phương thì đình Ngọc Lâm thờ Linh Lang Đại vương, vốn là Hoàng tử con vua Lý Thánh Tông, có công đánh giặc giúp nước
éChùa Ngọc Lâm (Linh Quang tự) được khởi dựng sớm (chưa xác định được chính xác) đã bị tàn phá trong kháng chiến chống Pháp. Năm 1969, nhà chùa cùng với nhân dân địa phương xây dựng lại một ngôi chùa nhỏ, hẹp để phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng. Năm 1992, chùa được trùng tu tôn tạo và tồn tại đến ngày nay. Chùa Ngọc Lâm được xây dựng trong một khuôn viên rộng có nhiều cây xanh, bao gồm cả đình làng với lối kiến trúc “tiền Thần hậu Phật”.
19. Đình, Chùa Nha 
é Chùa Nha (Cổ Linh tự) ở tổ 19, p. Long Biên, q. Long Biên. Được xây dựng vào đầu TK 17
Chùa có hệ thống tượng tròn gần 30 pho, nhiều pho được tạo tác vào TK 18.
éĐình Nha thuộc tổ 18, p. Long Biên, q. Long Biên. Đình được xây dựng thời Minh Mạng (1820-1840). 
Thờ 3 vị thành hoàng có công chống giặc cứu nước gồm: 
– Đô Thống Đại vương.
– Xuyên Hoa công chúa giúp vua Lê Đại Hành đánh thắng quân Tống năm 981
– Linh Lang hoàng tử giúp vua Lý Thánh Tông thắng giặc Tống năm 1076.  
Lễ hội: 10-12/02
20. Đình, Chùa Nông Vụ  Đông. 
Cả đình và chùa Nông Vụ Đông không có tư liệu nào cho biết được khởi dựng khi nào.
é Chùa Nông Vụ Đông cũng tức là chùa Vo Đông tên chữ là Bảo Long tự ở tổ 18, p. Phúc Lợi, q. Long Biên, chùa nằm sát phần nam đê sông Đuống, cạnh chân dốc cầu Phù Đổng .
é Đình Nông Vụ Đông ở tổ 15, p. Phúc Lợi, q. Long Biên,
Thờ Thành Hoàng làng là tướng quân Trịnh Trí – em của tướng quân Trịnh Chính được thờ tại đình Thượng Đồng. 
Lễ hội: 12/02 và 15/7 là ngày hóa của thần
21. Đình, Đền Phú Viên (Phú Viên có tên Nôm là Bồ Đề) thuộc tổ 2, p. Bồ Đề, q. Long Biên.
éĐình được xây dựng từ rất sớm, do chiến tranh và thiên tai, đình đã bị phá hủy. Năm 1993, đình Lâm Du được xây dựng lại gồm Tam quan, Đại Đình và hậu cung, nhưng đã xuống cấp. Đến năm 2012 UBND quận Long Biên và nhân dân phường Bồ Đề đã khởi công tu bổ, tôn tạo Đình – chùa Lâm Du, xứng tầm là công trình phật giáo – tín ngưỡng tiêu biểu của địa phương Bồ Đề.
Thờ đức Linh Lang là con của Hoàng hậu chính cung Minh Đức và vua Trần Nhân Tông. Ngài xuất gia năm 20 tuổi. Khi quân Nguyên vào cướp nước ta, Ngài gặp vua cha xin đem nghĩa binh đánh giặc, nhà vua khen là có chí khí mới chuẩn cho. Ngài chiêu mộ hàng vạn binh sĩ cùng với Trần Nhật Duật và Trần Hưng Đạo đi đánh giặc. Giặc tan. đất nước yên bình, nhà vua phong tặng Ngài là Dâm Đàm Đại vương năm ngài ngoài 36 tuổi. Sau khi mất, ngài đã có công âm phù giúp dân chống lũ lụt. 
éĐền Phú Viên thờ Tứ phủ, theo tín ngưỡng Đạo Mẫu và thờ Quan Lớn Đệ Tam.
22. Đình Phúc Đồng  cũng gọi là đình Sài Đồng ở ngõ 247 B Nguyễn Văn Linh, p. Phúc Đồng, q. Long Biên. Chưa có tư liệu chính xác đình được khởi dựng khi nào. Chỉ nói chung chung là rất lâu đời, nhưng tượng đồng, bia đá đều có niên đại TK18. 
Thờ Linh Lang đại vương, người có công trong cuộc kháng chiến chống Tống ở thế kỉ 11. 
Như vậy Thần Linh Lang đại vương này ở vào thời Lý, là con Lý Thánh Tông (1054-1072).
Lễ hội: 08/02
23. Đền Phúc Xá ở Tổ số 8, p. Ngọc Thụy, q. Long Biên. 
Quả chuông chùa An Xá đúc năm Chính Hòa 11 (1690) cho biết An Xá (nay là Phúc Xá) là quê hương của Ngô Tuấn tức Lý Thường Kiệt. Do sông Hồng lở bên hữu ngạn nên đền chuyển sang bên tả. 
Từ quả chuông Chính Hòa suy ra, đền Phúc Xá có thể được xây dựng muộn nhất là vào TK 17.
Thờ anh hùng dân tộc, Thái úy Việt Quốc công Lý Thường Kiệt (1019-1105). Ngoài ra đình còn thờ Đào Kỳ, Phương Dung và 4 công chúa. (không có thần tích).
Lễ hội: 03/6
24. Đình Quán Tình thuộc tổ 5, p. Giang Biên, q. Long Biên. Không rõ đình Quán Tình xưa kia được xây dựng từ bao giờ, hiện nay chưa có tư liệu nào nói đến. Ngôi đình nằm ngay sát chân đê, tả ngạn sông Đuống. Đợt vỡ đê Cống Thôn năm 1971, ngôi đình bị sạt lở, sau đó đê sông Đuống được kè đắp lại. Do nắn dòng đê để đảm bảo việc chống lụt nên thân đê sông Đuống đắp cả vào khu Hậu cung của đình.
Thờ vị Thần Nguyễn Nộn – một danh tướng dưới thời nhà Lý. Sau khi nhà Trần thay nhà Lý, ông quy phục triều Trần, giúp nhà Trần dẹp yên loạn lạc trong buổi đầu dựng nghiệp.
25. Đình Sài Đồng ở th. Sài Đồng nay là ngõ 247 B Nguyễn Văn Linh, p. Sài Đồng, q. Long Biên. Đình Sài Đồng tương truyền được xây dựng cách đây đã mấy trăm năm, nhưng vì đình làng gần khu vực sân bay Gia Lâm nên giặc Pháp đã tưới xăng đốt đình để tránh hậu họa. Đình bị đốt, còn lại mốt số đồ thờ, nhân dân chuyển về Nghè và từ đó đến nay Nghè được sử dụng thành đình.
Thờ Linh Lang đại vương. Theo thần tích, ngài là con của Long vương tên là Hoàng Lang có lệnh xuất thế thác sinh làm hoàng tử của vua Lý Thánh Tông. Không thấy nói chùa này thờ Quỳnh Hoa công chúa như thần tích ở đình Cự Đồng, Thach Bàn, Gia Lâm.
Những ngày cuối năm 2014 một góc sân bên đình Sài Đồng bỗng nhuốm trắng bụi đá. Đội thợ Cầu Đơ do Nguyễn Hoàn chỉ huy đang đi đầu trong việc thay tượng lũ sư tử ngoại lai ở đây bằng tượng bầy nghê hiền lành được các anh sáng tạo theo gợi ý của Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch.
Chưa có tư liệu gì về Nghè Sài Đồng.
Lẽ hội: 08/02
26. Đình, Chùa Thạch Cầu 
é Đình Thạch Cầu thuộc p. Thạch Bàn, q. Long Biên. Căn cứ vào truyền thuyết ở làng Thạch Cầu, thì ngôi đình làng này được xây dựng từ TK 10.
Theo truyền thuyết như nói trên thì đình Thạch Cầu thờ Lã Lang Đường – một vị tướng tài ba đã giúp Ngô Quyền đánh dẹp giặc ngoại xâm. Ngô Quyền mất, ông lại phò nhà Đinh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước. Sau khi ông mất, nhân dân thôn Thạch Cầu vô cùng thương tiếc và lập đình thờ ông làm Thành hoàng làng. (Lã Lang Đường có lẽ là Lã Đường?)
é Chùa Thạch Cầu (Thiền Quang tự) thuộc tổ 2, p. Long Biên, q. Long Biên.
Chùa Thạch Cầu được xây dựng vào thời gian nào hiện chưa có cơ sở để khẳng định, tuy nhiên căn cứ vào quả chuông ở trong chùa, có thể suy đoán chùa được dựng vào giữa TK 19.
27. Đình, Chùa  Thanh Am 
éĐình Thanh Am thuộc p. Thượng Thanh, q. Long Biên. Đình Thanh Am được xây dựng từ sớm, hiện còn lưu giữ được nhiều đạo sắc, trong đó đạo sắc sớm nhất có niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 2 (1730), từ đó suy ra có thể đình Thanh Am khởi dựng từ đầu TK 18.
Thờ hai võ tướng thời Hai Bà Trưng là Đào Kỳ và Phương Dung và một văn quan thời Mạc là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Danh nhân văn hoá lớn của dân tộc vào TK 16.
é Chùa Thanh Am (Đông Linh tự) ở số 76 phố Thanh Am, p. Thượng Thanh, q. Long Biên.
Được xây vào khoảng cuối thời Mạc, rồi được đại trùng tu vào thời Lê Trung Hưng, thời Nguyễn và gần đây.
Lễ hội: 09-10/3 
28. Đình Thổ Khối  ở Đường đê DT378, p. Cự Khối, q. Long Biên. Đình Thổ Khối có từ lâu đời, muộn nhất cũng trước năm 1730.
Thờ 6 vị thành hoàng làng: Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng, Cao Sơn Đại Vương, Linh Lang Đại Vương, Bạch Đa Đại Vương, Dị Mệ Đại Vương và Đào Thành hoàng. Trong 6 vị đại vương thì 3 vị Bạch Đa, Dị Mệ và Đào Thành hoàng đại vương thần tích như sau: Bạch Đa, Dị Mệ là hai vị thổ quan thường nghỉ lại ở Thổ Khối mỗi khi từ miền núi về kinh đô vào triều. Còn Đào thành hoàng vốn làm nghề chài lưới. Một hôm nằm mộng được thần gọi đi đón vua. Ông lật đật giong thuyền, quả nhiên chẳng bao lâu gặp được đoàn tùy tùng hộ giá nhà vua (không rõ vua nào vào thời nào) vừa thoát khỏi vòng vây của địch quân. Ông liền rước vua sang thuyền và đưa vào bờ. Vua thoát nạn, bèn phong cho làm Thành hoàng. 
29.  Chùa, Đình, Nghe Thôn Ngô 
é Chùa Thôn Ngô (Linh Ứng tự), ở tổ 9 p. Thạch Bàn, q. Long Biên.
Niên đại khởi dựng ngôi chùa chưa thể xác định chính xác, nhưng qua các hiện vật hiện tồn như văn bia, tượng Phật, thì ngôi chùa chỉ mới được dựng từ cuối TK 19.
éĐình thôn Ngô là nơi phụng thờ các vị Thành hoàng làng: Linh Lang, Lã Lang, Phương Dung phu nhân, Hạnh Hoa công chúa,  mà theo Thần tích là những người có công đánh đuổi giặc Tống ở TK 11. 
éNghè thôn Ngô nguyên ban đầu được xây dựng bằng tranh, tre. Năm 1990, dân làng xây dựng lại trên nền đất cũ, Trong Hậu cung của nghè được đặt các ngai thờ với 2 tượng Phương Dung phu nhân và Hạnh Hoa công chúa.
30. Đình Thôn Nha ở p. Long Biên, q. Long Biên. Tục truyền, lúc đầu đình chỉ lợp lá nhưng không rõ được dựng khi nào. Sau có người làng là vợ một võ quan trong triều, đã dỡ dinh thự chuyển từ Huế ra cho dân dựng thành đình, lại cung tiến nhiều tiền của để hoàn thiện. Theo tư liệu tại đình thì đình dựng xong ngày mồng một tháng Ba năm Nhâm Ngọ đời vua Minh Mạng (1822), đến năm Giáp Dần niên hiệu Duy Tân (1914) đình được trùng tu.
Thờ 3 vị Đô Thống Đại vương, Xuyến Hoa công chúa có công giúp Lê Đại Hành chống Tống năm 981 và Linh Lang hoàng tử giúp vua Lý Nhân  Tông (1072-1127) thắng Tống năm 1076.
31. Đình, Chùa Thượng Đồng ở tổ số 9, p. Phúc Lợi, q. Long Biên.
é Đình Thượng Đồng đã có từ xưa, trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1947-1954) ngôi đình cũ đã bị phá hủy hoàn toàn. Sau đó được khôi phục đúng vị trí cũ. Sau năm 1960 đình được chuyển về chung với chùa, nhường lại đất đình để xây dựng Trường PTCS. Suốt một thời gian dài, các đồ tế khí đều chuyển sang để nhờ tại chùa làng và thành hoàng cũng được thờ ở chùa. Đến năm 1998, với sự đóng góp của toàn dân, đình được xây dựng lại và tách ra khỏi chùa. 
Lễ hội: 18/11
é Chùa Thượng Đồng  (Hiển Ứng tự). Căn cứ vào sắc phong và bia đá ở chùa, có thể suy ra, chùa Thượng Đồng khởi dựng từ TK 17. Qua thăng trầm của lịch sử chùa đã bị mai một và sửa chữa nhiều lần, đến nay khuôn viên chùa đã thu hẹp lại cả về quy mô và diện tích. Đợt trùng tu lớn vào năm Canh Tuất niên hiệu Duy Tân thứ 4 (1910) và lần cuối cùng vào năm 1999.        
32. Đình, Chùa Tình Quang đều ở tổ 3, p. Giang Biên, q. Long Biên. 
é Chùa Tình Quang (Phổ Quang tự)
Tương truyền, chùa Tình Quang được khởi dựng từ rất sớm, song do nhiều biến động của lịch sử, đặc biệt là lần vỡ đê ở TK 19, nên diện mạo của ngôi chùa cũ không còn, các di vật bị thất lạc rất nhiều. Căn cứ vào hệ thống tượng trong chùa có thể suy đoán chùa Tình Quang được xây dựng vào TK18.
é Đình Tình Quang ban đầu chỉ là ngôi đền do Cao Dương Công là người làng – một tướng tài của Lý Bí dựng lên để thờ Lý Nam Đế. Đến thời Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa (1680-1705), dân làng Tình Quang đã mở mang xây dựng lại.
Thờ:
– Lý Bí tức Lý Nam Đế, vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Vạn Xuân.
– Hộ Quốc công Đinh Điền – tướng của Đinh Bộ Lĩnh. (Đinh Điền được tôn là Thành hoàng làng Tình Quang. Trước đây, phía sau hậu cung đình là lăng và mộ của ngài). 
– Lý Chiêu Hoàng, vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Lý.
Lễ hội: 17-19/02
33. Đình, Chùa Trạm đều ở tổ 12 Trạm, p. Long Biên, q. Long Biên.
éĐình làng Trạm được xây từ rất lâu đời trên nền ngôi miếu thờ Tương liệt Đại vương Nguyễn Thành Công, tương truyền là một vị tướng của Hai Bà Trưng.
é Chùa Trạm (Nghiêm Quang tự)
Chưa tài liệu cho biết chính xác chùa được xây dựng khi nào. Căn cứ vào các hiện vật trong chùa có thể đoán định chùa Trạm được xây dựng muộn nhất vào thời Lê Mạt, TK 18
Lễ hội: 09-10/02
34. Đình, Chùa Trường Lâm 
é Chùa Trường Lâm (Linh Quang tự) ở số 76 phố Hoa Lâm,  p. Việt Hưng, q. Long Biên.
Theo truyền ngôn, chùa có thể được xây dựng từ thời nhà Lý. Qua khảo sát các di vật của ngôi chùa, có thể nhận định sơ bộ là chùa được xây dựng dưới triều Lê; còn nếu căn cứ vào tạo tác tương thờ thì chùa chủ yếu mang phong cách nghệ thuật triều Nguyễn.
éĐình Trường Lâm ở tổ 2, p. Việt Hưng, q. Long Biên. Chưa có tài liệu cho biết đình được khởi dựng khi nào, nhưng căn cứ các hiện vật trong đình, thì có thể đình Trường Lâm được xây dựng vào nửa đầu TK 18.
Thờ 3 vị Thành hoàng làng là: Đức Thánh Linh Lang thời Lý, Đào Hoa công chúa và Phù Nàng công chúa (2 vị sau không có thần tích).
Lễ hội: 10-15/2
35. Đình, Chùa, Nghè Tư Đình 
éChùa Tư Đình (Sùng Khánh tự) ở phố Tư Đình, p. Long Biên, q. Long Biên.
Đã có từ đầu Lê Trung Hưng, TK 16. Cuối TK 19, giáo dân theo đạo Thiên Chúa trong vùng tăng nhanh, chức sắc trong làng quyết định giao cho giáo dân ngôi chùa Sùng Khánh để dỡ lấy vật liệu xây nhà thờ. Nên nay chùa Tự Khánh không còn nữa.
é Đình Tư Đình thuộc th. Tư Đình là một làng cổ. Gần 2000 năm trước, sau khi đánh đuổi giặc phương Bắc ra khỏi bờ cõi, danh tướng Thành Công Tương Liệt đại vương-người địa phương đã hy sinh trong cuộc chiến chống quân Đông Hán được Hai Bà Trưng cho cả 5 thôn trong xã Cổ Linh đều thờ ông làm Thành hoàng.
Hiện các tư liệu còn lưu giữ tại đình cũng không khẳng định được thời gian khởi dựng. Nhưng các di vật thờ cúng đều vào triều nhà Nguyễn.
Đình Tư Đình thờ 4 vị Thành hoàng là: Linh Lang hoàng tử chống giặc phương Bắc ở TK 11, Đô Hồ, Đại Lã Hiển Ứng (là 2 tướng cùng vua Lê Đại Hành chống Tống thắng lợi năm 981),  Thành Công Tương Liệt đại vương. 
é Nghè Tư Đình hiện thuộc tổ số 4, p. Long Biên, q. Long Biên.
Căn cứ các hiện vật có thể đoán định di tích nghè Tư Đình được khởi dựng vào thời Nguyễn và tu bổ, tôn tạo trong những năm sau này.
Thờ bà Vũ Thị Như Ý- Trân Tư công chúa Đại vương người thôn Tư Đình. Thời vua Lý Thái Tổ ngự giá Bắc tuần có gặp Bà hái dâu ven sông, thấy Bà xinh đẹp, hiền thục đã mời Bà vào cung làm nhũ Mẫu nuôi dậy Hoàng tử. Được 9 năm, khi Hoàng tử khôn lớn Bà xin về quê, vua đã ban thưởng hậu. Đến ngoài 50 tuổi thì Bà mất, được vua phong cho là Trinh Thục phu nhân, nhân dân lập đền thờ Bà. Bà sinh ngày 21 tháng 8 và mất ngày 22 tháng 4 âm lịch.
Lễ hội: 09-10/02
36. Đình, Chùa Vo Trung đều nằm ở tổ 11-13, p. Phúc Lợi, q. Long Biên.
éChùa Vo Trung (Chùa Bảo Khám) 
Chùa Bảo Khám chưa rõ được khởi dựng khi nào, trải qua nhiều lần trùng tu, nhưng quy mô nhất là lần trùng tu năm 1896. Chùa còn lưu giữ được rất nhiều di vật quý, mang đậm dấu ấn của nghệ thuật điêu khắc thời Nguyễn.
é Đình Vo Trung: Trước năm 1960, đình Vo Trung được xây dựng ở ngoài đê cách đình hiện nay khoảng 300m, hiện còn lưu giữ vị trí cổng đình. Sau những năm 1960, do sự biến động của xã hội, đình chuyển về trong khuôn viên đất của chùa và được nhân dân đóng góp xây dựng vào 2004.
37. Đình, Chùa Xuân Đỗ Hạ đều ở số 97, đường Xuân Đỗ, p. Cự Khối, q. Long Biên.
é Chùa Xuân Đỗ Hạ (Sùng Phúc tự). Cũng như nhiều ngôi chùa cổ ở Việt Nam, chùa Xuân Đỗ Hạ có chức năng chính là thờ Phật, bên cạnh đó chùa còn thờ các vị sư Tổ, Thánh Mẫu và phụ thờ Đức Thánh Trần. 
Theo bài văn bia dựng năm Cảnh Thịnh thứ 8 (1800) cho biết, ngôi chùa có tiền thân là một am thờ Tổ, sau được mở rộng thành chùa thờ Phật Qua nghiên cứu các hiện vật của nhà chùa, có thể đoán định niên đại xây dựng ngôi chùa khoảng thời hậu Lê, đến thời Tây Sơn được tu sửa lại.
é Đình Xuân Đỗ ở tổ 11-13 p. Cự Khối, q. Long Biên.
Thờ Nữ Thần Lâu Ly Nương nằm trong hệ thống thần thoại về thời dựng nước đầu tiên của dân tộc ta và Phúc thần khỏa Ba Sơn, một vị dũng tướng tài danh của Hai Bà Trưng.
Lễ hội: 09-10/02
38. Chùa, Đền Yên Tân đều ở số 37 ngõ 175 Ngọc Thụy, p. Ngọc Thụy, q. Long Biên.
éĐền Yên Tân: niên đại khởi dựng đền và chùa Yên Tân vào thời Nguyễn.
Thờ Nữ tướng Quý Nương. Theo truyền tích, 4 anh em là Trung Thành, Thông Vinh, Đổng Lương và Quý Nương là tướng của An Dương vương nước Âu Lạc, TK 3 trước công nguyên. Khi Triệu Đà đánh chiếm thành Cổ Loa, 4 tướng đã chiến đấu chống quân xâm lược và anh dũng hy sinh. Bốn vị tướng được thờ ở Gò mộ Tổ và đình Gia Thụy, q. Long Biên.
Do di tích nằm ngoài đê sông Hồng thường bị nước ngập vào mùa mưa lũ, kiến trúc công trình dễ bị hư hại và do diện tích quá chật hẹp, năm 2003 chính quyền và nhân dân nơi đây đã tu sửa, nâng cấp kiến trúc lên thành 2 tầng. 
é Chùa Yên Tân (An Tân tự): Trong di tích còn lưu giữ được một số cổ vật như: bia đá thời Nguyễn, tượng có phong cách nghệ thuật TK 19. Đây là cơ sở để đoán định niên đại khởi dựng đền và chùa Yên Tân vào thời Nguyễn.
Thờ Phật và thờ Mẫu
Lễ hội: 10-11/02
QUẬN NAM TỪ LIÊM
1. Đình Đại Mỗ thuộc x. Đại Mỗ, h. Từ Liêm –  nay là xóm Ngang, p.Đại Mỗ, q. Nam Từ Liêm.
Đình được xây dựng muộn nhất cũng vào đầu TK 18.
Thờ Ả Lã Nàng Đê, con gái Lữ Gia. Đình còn thờ 3 cha con ông cháu Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Qúy An và Nguyễn Quý Kính.
2. Đình, Chùa Hòe Thị ở th. Hòe Thị, x. Xuân Phương, h. Từ Liêm.
é Chùa Hòe Thị (Hương Đỗ tự) ở ngõ 143 Xuân Phương, p. Phương Canh, q. Nam Từ Liêm.
Tương truyền được xây dựng vào khoảng TK 17, đại trùng tu vào năm 1928.
Chùa có đủ Phật tượng theo hệ phái Bắc tông.
é Đình Hòe Thị ở ngã phố Phương Canh-Hòe Thị, p. Phương Canh, q. Nam Từ Liêm.
Được xây dựng vào Khoảng TK 17, ban đầu ở xóm Gáo. Đến năm 1831, dân làng mới di chuyển đình ra vị trí hiện nay.Thờ Thành hoàng là Phan Ông Tây Nhạc và vợ 3 là Hoa Dung. Ông là danh tướng thời Hùng Duệ Vương (Hùng Vương 18) có công trong sự nghiệp bảo vệ nước Văn Lang, bà có công giữ thành, tiếp tế quân lương.
Lễ hội: 10-13/02
3. Đình Mễ Trì Hạ ở x. Mễ Trì, h. từ Liêm-nay ở ngõ 59 Mễ Trì, p. Mễ Trì, q. Nam Từ Liêm.
Chưa tìm thấy tư liệu nào về năm ra đời của ngôi đình. Hiện nay đình Mễ Trì Hạ còn lưu giữ được nhiều bảo vật quý như bia đá, cổ vật bằng đồng, cùng 34 sắc phong thần của các triều đại phong kiến. Nhưng đáng tiếc không rõ sắc phong sớm nhất ở vào thời vua nào, nên không có căn cứ suy đoán niên đại của ngôi đình này.
Năm 1427, khi nghĩa quân Lam Sơn tiến ra vây đánh quân Vương Thông trong thành Đông Quan thì có một đội binh của tướng Lê Thụ đóng ở Mễ Trì, đặt sở chỉ huy trên gò Quy Sơn, kết quả giặc Minh phải đầu hàng. Tết Kỷ Dậu 1789, cánh quân thần tốc của Đô đốc Long cũng tiến về đây, ém quanh đầm rồi bất ngờ đánh Khương Thượng, diệt đồn giặc Thanh ở đó và làm cho thái thú Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử, thừa thế tràn vào Thăng Long, tổng đốc Tôn Sĩ Nghị phải vứt tất cả để bỏ chạy.
Thờ thành hoàng là Cao Sơn, Quý Minh  (2 trong số 50 con của Lạc Long Quân và bà Âu Cơ theo cha lên núi). Còn thờ Thánh Đăm, Quốc vương thiên tử Lý Bí và Diêm La thiên tử tức Lý Phật Tử.
4. Đình, Chùa  Mễ Trì Thượng ở đoạn giữa phố Mễ Trì Thượng, p. Mễ Trì, q. Nam Từ Liêm.
é Chùa Mễ Trì Thượng (Thiên Trúc tự), còn gọi là chùa Tổ Quạ. Chùa được xây dựng vào cuối thời Lê Mạt, bởi nhà sư Quang Lộ Thích Đường, theo thiền phái Tào động. Đến 2014, chùa được đại trùng tu.
é Đình Mễ Thì Thượng trước kia thờ Cao Sơn 
và Quý Minh là hai vị thần, con của Lạc Long Quân và bà Âu Cơ. Về sau thờ thêm Lý Bí (tức Vua Lý Nam Đế) sau thờ cả Lý Phật Tử. Đình còn là nơi giấu quân của Đô đốc Long của nhà Tây Sơn trước khi kéo vào giải phóng Thăng Long năm 1789.
Lễ hội: 07/01
5. Đình, Miếu, Chùa Miêu Nha 
éĐình và miếu Miêu Nha ở phố Do Nha, p. Tây Mỗ, q. Nam Từ Liêm. Tương truyền có từ TK 6.
Thờ Lý Nam Đế. Đình còn thờ các thiên thần: Thủy Hải Long Vương, Nhật Long Vương, Nguyệt Long Vương, Thiên Chúa Bình Vương.
é Chùa Miêu Nha tương truyền có từ trước thời Lê. Đầu TK 16, một bà vương phi về cầu tự tại đây rồi sinh ra một con trai được lập làm vua. Sau, bà đã đứng ra hưng công xây dựng lại, nên mới có tên gọi chùa Bà, sau đó chùa được đổi tên chùa Thiên Khánh.
Lẽ hội: 12/01
6. Đình Ngọc Mạch ở số 359 Xuân Phương, p. Xuân Phương, q. Nam Từ Liêm.
Chưa rõ được khởi dựng năm nào, nhưng những di vật thờ phụng được tạo tác từ TK 18-19.
Thờ Lý Lang, con Lý Nam Đế.
Lễ hội: 09-10/02
7. Đình, Chùa Ngọc Trục đều ở th. Ngọc Trục, x.  Đại Mỗ, h. Từ Liêm- nay là thôn Ngọc Trục, p. Đại Mỗ, q. Nam Từ Liêm.
é Đình Ngọc Trục: Chưa có tư liệu xác định niên đại ngôi đình, nhưng dựa vào hiện vật thì có thể cho rằng đình được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng TK 16.
Thờ Ả Lã Nàng Đê là vị tướng tài của Hai Bà Trưng và Nàng Tập Bộ Thiên La Đại vương đệ nhất, đệ nhị, đệ tam (là con Nàng Đê). Còn thờ Đào Trực, người ở Trung Văn, x. Ngọc Trục có công giúp Lê Hoàn dẹp Giặc Tống.
é Chùa Ngọc Trục, theo cụ Bạch Ngọc Hải đã hơn sáu năm trụ trì tại chùa cùng các tài liệu và hiện vật còn lưu lại ở chùa cho thấy, chùa Ngọc Trục được xây dựng hơn 500 năm trước, lúc đầu được gọi là chùa Đại Bi, nay dân gọi là chùa chùa Đại Phúc.
8. Đình Phú Đô ở làng Phú Đô, x. Mễ Trì, h. Từ Liêm-nay ở số 56 Lê Quang Đạo, p. Phú Đô, q. Nam Từ Liêm. Chưa có tư liệu về nên đại của ngôi đình. 
Thờ Lã Nam Đế (Lý Thiên Bảo) và Đinh Lễ. Còn thờ con Đinh Lễ là Đinh Dự và Mãn Đường Hoa là 2 tổ sư của nghề ca trù.
(Cần chú ý rằng ngài Đinh Lễ này là Đinh Lễ khác, chứ không phải Đinh Lễ là anh Đinh Liệt).
9. Đình, Chùa Phùng Khoang 
é Đình Phùng Khoang ở phố Phùng Khoang, p. Trung Văn, q. Nam Từ Liêm
Đình đã có từ cuối TK 17.
Thờ Đoàn Thượng (1181-1228) – Thái úy dưới triều Lý Huệ Tông (1211-1224). Nhà Lý mất, ông về quê hương Hồng Châu (Hải Dương) giương cờ ‘kháng Trần phục Lý’ không thành, bị  nhà Trần giết chết ngày mồng 8 tháng Giêng năm Bính Thân (1228).
Dân làng Phùng Khoang lấy ngày mất của ngài làm chính hội.
Đoàn Thương được các đời sau phong Đông Hải Đại Vương.
é Chùa Phùng Khoang (Thanh Xuân tự), là nơi Bình An Vương Trịnh Tùng chết năm 1623, như vậy ngôi chùa này phải có trước đó nhiều năm, ít nhất cũng là vào đầu TK 17 
10. Chùa Thị Cấm (Linh Ứng tự) ở ngõ 148, p. Phúc Diễn, q. Nam Từ Liêm.
Truyền thuyết dân gian trong vùng cho biết chùa Linh Ứng được xây dựng cuối thời Trần. Đến cuối thế kỷ 17, vợ chồng bà Nguyễn Thị Hảo ở bản thôn đã đem của nhà tu sửa cung điện, gác chuông, khánh. Đến năm Cảnh Thịnh 2 (1795) lại đúc quả chuông “Linh Ứng chung”. Sang đời Nguyễn, chùa được sửa chữa lớn.
11. Chùa Thượng Phú Đô (Tăng Long tự) ở đoạn giữa phố Phú Đô, p. Phú Đô, q. Nam Từ Liêm.
Chưa rõ chùa được xây dựng năm nào. Chùa có đầy đủ hệ thống tượng Phật theo phái Bắc tông. 
Ngoài thờ Phật, chùa còn thờ Mẫu theo tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
Trong nhà Mẫu có chính điện thờ Tam phủ, bên tả là ban thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo, bên hữu có ban Sơn Trang.
QUẬN TÂY HỒ
1. Đình An Thái số 596 Thụy Khuê, p. Bưởi, q. Tây Hồ. Được xây dựng từ TK 11, nhưng mãi tới thời Lê Hy Tông (1676-1705) mới được trùng tu lớn.
Thờ Thành hoàng làng là Vũ Phục, tự là Phúc Thiện và vợ cùng em trai có công trong việc đắp đê ngăn nước ở vùng hợp lưu giữa sông Tô Lịch và sông Thiên Phù (khu vực chợ Bưởi hiện nay). 
Trước khi mất, ông bà có dặn lại là “ ngày xuân tổ chức ca hát, thế là ta vui lắm, nên từ đó cứ đến ngày mồng mười tháng hai hàng năm, làng An Thái tổ chức lễ Tế Xuân để tưởng nhớ công lao và sự hy sinh vì dân vì nước của ông bà.
Ông bà mất, vua ban cho ông là: “Chiêu Ứng Phù Vận đại vương”, bà là “Thuận Chính Phương Duy công chúa”, người em trai là: “Chiêu Điên Đại Vương” và cho dựng đình thờ.
Lễ hội: 10/02
2. Chùa Châu Lâm Tục gọi là chùa Bà Đanh, ở số 199, phố Thụy Khuê, p. Thuỵ Phương, q. Tây Hồ. Chưa rõ chính xác chùa được khởi dựng khi nào. Chùa sở hữu hệ thống tượng phong phú, gần 50 pho tượng tròn, 40 tượng Phật mang phong cách nghệ thuật TK 18-19.
3. Đền Đồng Cổ ở số 353 đường Thụy Khuê, p. Bưởi, q. Tây Hồ, 
Được lập từ năm 1028.
Thờ thần núi Đồng Cổ (ở x. Đan Nê, h. Yên Định, Thanh Hóa), tại đây thời Lý hàng năm tổ chức hội thề trong hoàng thất nhà Lý. Về sau lễ hội thề này vẫn được duy trì ở thời Trần và Lê. Ngày nay, lễ hội đền Đồng Cổ ở Hà Nội được tổ chức vào ngày 4 tháng Tư âm lịch, đã mô phỏng lại hội thề lịch sử năm xưa…
Lễ hội: 04/4

 

Đn Đng C – ph Thy Khuê – Hà ni vi lch s Hi Th thi Lý

4. Chùa Khai Nguyên cũng gọi là chùa Quán La, tên chữ là Khai Nguyên tự. Ở ngõ 38 Xuân La, p. Xuân La, q. Tây Hồ.
Tên Quán La khiến ta nghĩ đến chùa này vốn là nơi tu hành của Đạo Giáo. Quả vậy, Quán Khai Nguyên là do Thứ sử Quảng Châu Lư Hoán cho dựng vào những năm Khai Nguyên (713-741) dưới thời Đường Huyền Tông Lý Long Cơ (712-756). Quán Khai Nguyên, suốt mấy trăm năm từng có nhiều đạo sĩ tới tu luyện cho đến khi Đạo Giáo suy đồi. Đến đời Trần Dụ Tông (1341-1369), nhà sư trụ trì cho trùng tu quán rồi chuyển thành chùa theo học thuyết ‘Tam giáo đồng nguyên’ của Phật Hoàng Trần Nhân Tông (1279-1293).
5. Chùa Kim Liên dựng trên đất của làng Nghi Tàm, bên bờ Hồ Tây, nay thuộc p. Quảng An, q. Tây Hồ.
Chùa khởi dựng năm 1631 có tên chùa Đại Bi, đến năm 1771, chúa Trịnh Sâm cho dỡ chùa Bảo Lâm ở phía tây kinh thành về tu bổ lại chùa này và đổi gọi chùa Kim Liên. Diện mạo chùa Kim Liên hiện nay là do lần trùng tu năm 1792.
Chùa thờ Phật và thờ công chúa Từ Hoa, con gái vua Lý Thần Tông đã đem cung nữ đến khu vực này trồng dâu nuôi tằm, mở ra trại Tàm Tang. Trại này sau đổi gọi phường Nghi Tàm.
6. Chùa Mật Dụng số 442, Thụy Khuê, p. Bưởi, q. Tây Hồ.
Nhân dân lại quen gọi chùa là chùa Làng Đông.
Căn cứ vào kiến trúc, chùa được xây dựng từ lâu đời. Đến năm Cảnh Thịnh thứ 2 (1794), dân làng đã góp tiền đúc quả chuông đồng có chữ Mật Dụng hồng chung (chuông làng Mật Dụng). Năm Minh Mạng thứ 4 (1823), chùa được tu bổ, xây thêm gác chuông, tô vẽ tượng Phật. Tổng số tượng còn lưu giữ trong chùa là 52 pho.
7. Đình Nhật Tân ở tổ 1, p. Nhật Tân, q. Tây Hồ. Được xây dựng từ TK 17
Thờ Đức Thánh Linh Lang có công với nước. Đức Linh Lang này là con bà Chính cung Minh Đức Hoàng hậu với vua Trần Thánh Tông. Trong thờì Trần Thánh Tông, tướng giặc là Toa Đô đem 50 vạn quân sang xâm lược nước ta. Ông dâng biểu bày kế sách dẹp giặc, tự tin đem gia binh đi đánh giặc. Vua khen Uy Linh Lang có chí lớn và đồng ý.  Vào giờ Ngọ ngày mùng 8 tháng 8 năm Mậu Tý, tướng Uy Linh Lang bị bệnh nặng và qua đời. Vua và bàn dân thiên hạ thương xót lắm, lập tức xây ngôi đền ở chỗ ông qua đời để thờ, gọi là đền Nhật Chiêu, sắc phong là Hiển Minh Đức.
Kho cu: Thời Trần có 3 năm Mậu Tý: 1228, 1288, 1348. Lại đối chiếu với niên biểu vua Trần Thánh Tông  (1240-1290/ 1258-1278) và Trần Nhân Tông (1258-1308/1279-1293) thì cả 3 năm Mậu Tý trên chẳng có năm nào phù hợp. Chúng tôi đã phải sửa lại không phải năm Mậu Tý mà năm Mậu Ngọ (1258) thì tìm ra đáp số .  Vậy Uy Linh Lang đúng là con vua Trần Thánh Tông, bị bệnh và qua đời vào năm Mậu Ngọ (1258) khi vừa 18 tuổi. Lại vì thần phả có chép, sau Uy Linh Lang mất thì được phong Hiển Minh Đức, gắn với tên Hoàng hậu Minh Đức sinh ra ngài.
Gần chú ý rằng, những nơi khác có thờ Uy Linh Lang thì cả sự tích lẫn niên biểu đều phải điều chỉnh theo khảo cứu ở trên. 

Lễ hội: 15/8 và ngày 10/02
8. Đình, Chùa Phú Gia đều ở làng Phú Gia, p. Phú Thượng, q. Tây Hồ.
éChùa Phú Gia (chùa Bà Già), là một công trình kiến trúc Phật giáo, có niên đại hơn 1.000 năm. Đến thời Trần thì đổi gọi chùa Phú Gia. Chùa Phú Gia được trùng tu lớn vào năm Dương Hòa thứ 2 (1636)
é Đình Phú Gia xây dựng năm 725 ở ngay trước tam quan chùa Bà Già theo lối kiến trúc “tiền Thánh hậu Phật”. Đình Bà Già ngoài chức năng thờ Thành hoàng làng, còn là nơi sinh hoạt của cộng đồng dân cư. 
Thành hoàng làng là Trần Khai Nguyên, một vị tướng thời Hùng Vương thứ 6 đã có công đánh giặc giữ nước. Tương truyền, ngài còn có công trị nạn hồng thuỷ, đem lại bình yên, hạnh phúc cho dân lành.   
Lễ hội: 08-11/01 (chính hội 10/01). 
9. Đình Quán La ở th. Quán La, x. Xuân La, h. Từ Liêm-nay là p.Xuân La, q.Tây Hồ.
Quán La, đình và chùa Khai Nguyên vốn là một quần thể di tích gắn liền với nhau. Vào niên hiệu Khai Nguyên (713-741) đời Đường, thứ sử Quảng Châu là Lư Hoán làm đô hộ Giao Châu thấy đất đai bằng phẳng, sông Già La chảy quanh, phong cảnh đẹp đẽ nên xây quán gọi là quán Khai Nguyên, ý muốn biểu dương công đức nhà Đường. Tuy nhiên, nhiều người vẫn gọi theo tên cũ là quán Già La. Đến thời Lý vẫn còn, sang thời Lê thì đổi gọi Quán La.
Thờ thành hoàng là Duệ Trang cùng 2 nàng hầu của bà, có công khai làng dạy dân cày cấy. Người phụ nữ này được cho là có công lớn trong việc đánh giặc, giữ nước và từng hoá tại khu vực đình ngày nay. 
Các sắc phong đều ghi: Phong Duệ Trang liệt nữ tôn thần, trung dũng, võ mục, trinh thuần, thuần ghi trạch dân thượng đẳng thần, hộ quốc tý dân.
10. Đình, Chùa Quảng Bá 
 Ở làng Quảng Bá, p. Quảng An, q. Tây Hồ.
é Chùa Quảng Bá Tương truyền được xây dựng vào thời Lý, do Thiền sư Ngô An (1019 – 1088) người làng khởi lập. Ðến thời Lê, năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628), Công chúa Nguyễn Thị Ngọc Tú, con gái Nguyễn Hoàng, vợ của Thanh Ðô Vương Trịnh Tráng (1623 – 1657) cho xây dựng lại quy mô lớn. Năm Minh Mạng thứ hai, chùa đổi tên là Sùng Ân tự, thời Tự Đức đổi là Hoằng Ân tự, ngày nay, chùa được gọi theo tên làng – chùa Quảng Bá.
Di vật có giá trị về mặt lịch sử và nghệ thuật với 30 pho tượng sơn son thếp vàng, tạo tác công phu tinh xảo, thuộc phong cách nghệ thuật thời Lê – Nguyễn và còn giữ được 30 tấm  bia đá.
é Đình Quảng Bá: Ban đầu, đình được xây dựng trên gò con xà, gần chùa Quảng Bá; đến thời Lê, đình được chuyển về địa điểm hiện nay. Năm 1936, đình được trùng tu, năm 1999-2000, nhân dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long, đình được đại trùng tu.
Theo truyền thuyết, làng Quảng Bá là đại bản doanh của Phùng Hưng khi tiến đánh thành Tống Bình (Hà Nội) để tiêu diệt quân nhà Đường. 
Thờ Phùng Hưng.
Lễ hội: 11/02
11. Chùa Sải (Tĩnh Lâu tự), ở góc phố Trích Sài-Võng Thị làng Hồ Khẩu, p. Bưởi, q. Tây Hồ.
Chùa Tĩnh Lâu có từ TK 16. Tương truyền ban đầu chỉ là một am nhỏ thờ các vương tôn quý tộc thời Lý, về sau am mới trở thành chùa thờ Phật. Trước đây chùa có tên gọi là Thanh Lâu tự  cho đến đời vua Thiệu Trị và có tên gọi nôm là chùa Sải. Từ đời vua Tự Đức trở đi thì đổi tên thành chùa Tĩnh Lâu.  Năm 2005, chùa được Nhà nước hỗ trợ đền bù đất giải phóng mặt bằng kè Hồ Tây và cho phép nhà chùa thi công trùng tu lại ngôi chính điện, hoàn thành khuôn viên cảnh quan theo hướng bảo tồn nguyên vẹn di tích.
Tháng 11 năm 2016, chùa bị hỏa hoạn, nhà Tổ bị  thiêu trụi. Nguyên nhân là do chập điện.
12. Chùa Tảo Sách (Linh Sơn tự) ở số 386 đường Lạc Long Quân, p. Nhật Tân, q. Tây Hồ. 
Chùa Tảo Sách còn có tên là Tào Sách trên văn bia và câu đối trong chùa.
Tương truyền, hoàng tử Uy Linh Lang – con trai Vua Trần Thánh Tông và Hoàng hậu Minh Đức – đã nhiều lần xin cha mẹ cho xuất gia quy Phật nhưng không được chấp thuận. Hoàng tử lập một nhà nhỏ ven Hồ Tây làm nơi đọc sách, ngâm vịnh thi phú, cùng bạn bè rèn văn, luyện võ. Năm Mậu Ngọ (1258), khi 18 tuổi, hoàng tử bị bệnh mất, nhà vua thương tiếc cho xây đền Nhật Chiêu (nay là đình Nhật Tân) để nhân dân hương khói phụng thờ. Còn trên nền nhà đọc sách ven hồ, dân làng đã xây dựng một thảo am để ghi nhớ dấu tích của hoàng tử (trình bày ở trên là theo lý giải ở đình Nhật Tân, số 7/Tây Hồ). 
Đến đầu đời Lê (TK15), một ngôi chùa đã được dựng trên nền cũ của am cỏ, gọi là Tảo Sách tự.
Ngoài thờ Phật, chùa Tảo Sách còn là nơi sinh hoạt của hội Hoa Nghiêm.
Đặc biệt, chùa còn lưu giữ rất nhiều tư liệu Hán Nôm có giá trị và những di vật mang tính nghệ thuật cao như: 42 câu đối, 12 bia đá, 40 tượng Phật…. 
13. Phủ Tây Hồ, Đền Kim Ngưu. Phủ nằm trên bán đảo lớn của làng Nghi Tàm, nhô ra giữa Hồ Tây-nay thuộc p. Quảng An, q. Tây Hồ.
éPhủ Tây Hồ: Theo truyền thuyết, phủ được xây dựng vào khoảng TK 17 nhưng có thể có muộn hơn.
Phủ thờ Bà Chúa Liễu Hạnh – một trong những đại diện đạo Mẫu ở Việt Nam là một trong tứ bất tử của Việt (Sơn Tinh, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh).
Lễ hội: 03/3 và 13/8 
éĐền Kim Ngưu không rõ được dựng từ khi nào, đã bị đổ trong chiến tranh chống Pháp, nhưng vẫn còn dấu tích là cây đa cổ thụ trên đó có ban thờ mà dân làng Tây Hồ dựng lên để thờ thần Kim Ngưu (Trâu Vàng). Theo truyền thuyết, tiếng chuông làm bằng đồng đen của nhà sư Nguyễn Minh Không (1066-1141) đời Lý làm cho con trâu vàng bị giam giữ ở Trung Quốc tưởng là tiếng trâu mẹ gọi, lồng về phía Việt Nam. Đường trâu vàng chạy lún thành sông Kim Ngưu. Đến phía tây kinh thành thì tiếng chuông tắt, trâu đã lồng và xéo nát một vùng thành hồ Kim Ngưu, tức Hồ Tây ngày nay. Trong đền hiện còn 32 đạo sắc phong cho thần Kim Ngưu từ thời Lê đến thời Nguyễn.
Đền thờ Trâu Vàng – đền Kim Ngưu bị đạn  đại bác của Pháp phá huỷ vào năm 1947. Đến năm 2000, đền đã được xây dựng lại khang trang, bề thế, tăng thêm giá trị văn hoá và du lịch cho khu
di tích Phủ Tây Hồ.
14. Chùa Trấn Quốc: Tên chùa Trấn Quốc có từ đời vua Lê Hy Tông (1676-1705).
 Nằm trên một hòn đảo phía Đông Hồ Tây thuộc quận Tây Hồ, chùa có lịch sử 1500 năm, được coi là lâu đời nhất ở Thăng Long – Hà Nội. Chùa Trấn Quốc nguyên là chùa Khai Quốc, dựng từ thời Tiền Lý (Lý Nam Đế, 541-547), tại thôn Y Hoa, gần bờ  sông Hồng. Đến đời  Lê Trung Hưng (1615), chùa được dời vào trong đê Yên Phụ, dựng trên nền cũ cung Thúy Hoa (thời nhà Lý) và điện Hàn Nguyên (thời nhà Trần). 
Dưới triều vua Lý Nhân Tông (1072-1128), Thái hậu Ỷ Lan đã nhiều lần đến chùa cùng các vị cao tăng đàm đạo. Đến đời vua Lê Thái Tông (1434-1442), nhà vua đổi tên chùa là chùa An Quốc. Hàng năm, nước sông Hồng lên to xói mòn làm lở bãi sông. Cho nên, năm 1615 đời vua Lê Kính Tông (1600-1619), dân làng Yên Phụ dời chùa vào gò đất Kim Ngư (Cá vàng).
Trong khoảng TK 17, chúa Trịnh cho đắp đê Cố Ngự (sau gọi chệch ra thành Cổ Ngư, nay là đường Thanh Niên) nên mới có đường nối đê với đảo Cá vàng. 
Đến đời vua Lê Hy Tông, niên hiệu Chính Hòa (1681-1705), chùa được đổi tên là Trấn Quốc. Bức hoành phi đề chữ “Trấn Quốc tự” treo tại gian đại bái hiện nay được làm từ thời đó. Đến đầu nhà Nguyễn, chùa lại được trùng tu, đúc chuông, đắp tượng. 
Lần trùng tu lớn nhất là vào năm Ất Hợi (1815), 
niên hiệu Gia Long 14. Năm 1821, Vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1842, Vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc đã được người dân quen gọi đến tận ngày nay.
Có thể nói đợt tu bổ lớn nhất từ trước đến nay là vào năm 2010, tu bổ để chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội và Hội nghị Thượng đỉnh Phật giáo Thế giới lần thứ 6 tổ chức tại Việt Nam vào tháng 11/2010. Do nhiều lần trùng tu, sửa chữa nên kiến trúc chùa đã không khỏi bị pha tạp phong cách kiến trúc của các thời kỳ.
Chùa Trấn Quốc tức chùa Khai Quốc thời mới dựng là trị sở của thiền phái ‘Vô ngôn thông’ truyền vào nước ta từ năm 820, trải qua các thiền sư Cảm Thành, Thiện Hội, Vân Phong rồi đến Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933-1011) là Quốc sư thời nhà Đinh.
15. Đình, Chùa, Am Trích Sài.
é Chùa Trích Sài (Thiên Niên tự) nằm ở góc ngã tư Xuân La – Lạc Long Quân – Vệ Hồ, p. Bưởi, q. Tây Hồ.
Theo truyền thuyết, chùa ra đời thời Lý Nam Đế (544 – 548). Nơi này thời vua Lê Thánh Tông, tặng cho các cung nữ để làm đất sinh nhai. Được đặt tên là Thiên Niên. Tại trang Thiên Niên này đến thời Minh Mạng (1820-1841), thì xây chùa và mang tên Thiên Niên tự từ đó. Dấu vết vật chất hiện còn có niên đại sớm nhất là tấm bia đá niên hiệu Vĩnh Thịnh năm thứ năm (1709), cho biết ngôi chùa đã có mặt dưới thời Lê Sơ. Chùa thờ Phật và thờ bà chúa dệt lĩnh Phạm Thị Ngọc Đô – thứ phi của vua Lê Thánh Tông đã từng truyền nghề dệt lĩnh cho nhân dân trong vùng.
 (Có tài liệu nói bà này là cung phi chúa Chiêm Thành, chúng tôi cho thuyết này không đúng: xem đền Đông Thiên q. Hoàng Mai). 
Vào cuối đời Lê, có quan Thái bảo Đà Quốc công Mạc Ngọc Liễn đã giúp tu sửa lại chùa và cúng ruộng hậu; trong nhà Tổ, ở ban thờ bên trái có tượng của ông. 
éĐình Trích Sài nay ở số 223 phố Trích Sài, bên trái Văn chỉ của làng. Bên phải Văn chỉ có am Gia Hội. Theo sử cũ, trước khi dựng chùa Thiên Niên, nơi đây có chùa Bát Tháp từ thời Lý Nam Đế dành cho hai công chúa con vua sau khi đi học pháp thuật trừ diệt hồ tinh về trụ trì thắp hương niệm Phật. Hàng năm các quan trong triều về đây làm lễ quốc tế. Đến thời Lê Thánh Tông (1460-1497), nhà vua cắt một nửa thôn Trích Sài cho các cung phi và dựng miếu cho các bà thờ cúng niệm Phật. Trước miếu có chùa Bát Tháp dựng trên nền đất thấp, nhà vua cho dời lên khu đất cao và đổi gọi đình làng Trích Sài. Đình Trích Sài cùng với đình làng Võng Thị thờ ông Mục Thận làm thành hoàng làng. Thần Mục Thận có công cứu vua Lý Nhân Tông thoát khỏi âm mưu hãm hại của Thái sư Lê Văn Thịnh trong một lần nhà vua đi du ngoạn hồ Tây. Cứ đến ngày 6/9 âm lịch hàng năm, nhân dân lại tổ chức giỗ ông Mục Thận (Thực chất đó chỉ là trận ‘đấu đá’ đầu tiên giữa Nho và Phật mà thôi).
é Am Gia Hội nơi lưu giữ sự tích trừ hồ tinh của hai nàng công chúa con vua Lý Nam Đế. Trước kia vùng này có gò Bát Tháp, núi Ngũ Nhạc và nhiều nơi ẩn nấp các loài ác thú được coi như yêu quái. Nghe nói nền am vốn là một đàn tế để trấn trị hồ tinh, hàng năm có lễ quốc tế ở đây. 
Lễ hội: 05/01
16. Đình, Chùa Tứ Liên   
é Chùa Tứ Liên, còn có tên Chùa Tứ Tổng (Tam Bảo tự) ở số 167-169  đường Âu Cơ, p. Tứ Liên, q. Tây Hồ. 
Chùa được xây dựng vào năm Đức Long thứ ba (1631) đời vua Lê Thần Tông .
é Đình Tứ Liên tức là đình Ngọc Xuyên còn có tên là đình Ngoại Châu ở ngõ 200 Đường Âu Cơ, p. Tứ Liên, q. Tây Hồ.
Chưa có tư liệu đình Tứ Liên khởi dựng khi nào.
Thờ 3 vị thành hoàng làng: Bảo Trung Thượng đẳng phúc thần, Minh Khiết Thượng đẳng phúc thần và Ý Hạnh phu nhân công chúa Thượng đẳng phúc thần. Thần tích lưu giữ tại đình ghi rằng, hai người anh là Bảo Trung, Minh Khiết và cô em gái tên Phương được sinh ra trong một gia đình thuộc dòng họ Nguyễn ở trang Đồng Lục, phủ Khoái Châu, đạo Sơn Nam nay thuộc xã Tứ Dân, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Khi quân Chiêm Thành kéo đến xâm lấn biên cương, hưởng ứng truyền hịch tìm người của nhà vua, hai người anh liền đến yết kiến vua xin đi đánh giặc và được vua phong là tướng quân trung phẩm. Hai ông đã chiêu mộ, huấn luyện được 3 vạn tinh binh, chia làm hai đạo quân thủy, bộ cùng tiến thẳng tới đồn giặc. Sau khi đánh tan quân Chiêm Thành ít lâu, các ông mất. Biết tin, nhà vua rất thương tiếc, sắc phong hai ông là “Thượng Đẳng Phúc Thần” rồi lệnh cho nhân dân lập miếu thờ phụng và hương khói đời đời.
Còn cô em gái là người trồng dâu nuôi tằm rất giỏi. Theo truyền thuyết, một hôm, cô đang trồng dâu ở bãi cát ven sông thì bỗng đâu rồng rắn nổi lên mặt nước rồi quấn lấy cô đưa về thủy quốc. Về sau, dân làng thấy cô nhiều lần nổi lên ở giữa sông với một cái chén ngọc ở trước trán liền lập miếu phụng thờ, gọi là miếu Bà Chén. Trong các trận đánh quân xâm lược, bà đã nhiều lần hiển linh giúp vua đánh thắng trận. Cảm kích trước anh linh của bà, vua truyền mang sắc chỉ đến, phong cho bà là Ý Hạnh phu nhân tôn Công Chúa Thượng Đẳng Phúc Thần và cho tôn tạo lại miếu để tạ ơn công đức của bà.
Lễ Hội  16/3 (chính) và 12/10
17. Chùa Vạn Niên Chùa từng có tên là Vạn Tuế, thuộc địa phận ấp Quán La, nay thuộc thôn Vệ Hồ, p. Xuân La, q. Tây Hồ. Chùa được xây dựng vào năm Thuận Thiên thứ 2 (1011) sau khi vua Lý Công Uẩn dời đô ra Thăng Long, tên gọi ban đầu là “Vạn Tuế” sau đổi thành “Vạn Niên”. Đây được coi là ngôi chùa thiêng liêng của đất Thăng Long – Hà Nội. Suốt hơn 1.000 năm lịch sử, qua bao thăng trầm, ngôi chùa cũng đã nhiều lần trùng tu.
Chùa Vạn Niên ngoài thờ Phật còn có Điện Mẫu thờ Bà Chúa Liễu Hạnh.
18. Đền Voi Phục Thụy Khuê tại số 251 đường Thụy Khuê, p. Bưởi, q. Tây Hồ.
Đền Thụy Khuê thời Lý là Điện Thụy Chương, khoảng cuối triều Hồ cho dỡ bỏ điện này. Dân địa phương nhân nền cũ mới dựng đền thờ Đức Thánh Linh Lang. Như vậy có thể khẳng định về niên đại ngôi đền hiện nay ít nhất đã có từ thời nhà Hồ (1400 -1407) cách đây hơn 600 năm.
Đức Thánh Linh Lang có tên là Hoàng Lang – con vua Lý Thái Tông (1028-1054) với bà thứ phi Cảo Nương. Ngài sinh vào ngày 13 tháng chạp năm Kỷ Tỵ 1029. Đến năm Thiên Cảm Thánh Vũ 1044, Hoàng Lang đã tinh thông võ nghệ – Bấy giờ chúa Chiêm Thành bất kính, bất phục vì từ khi Thái Tổ mất đã 16 năm, Chiêm Thành chưa một lần đến giao hiếu, nên vua cha thân chinh mang quân phạt Chiêm trị tội bất kính đó (Toàn thư tr.265). Thần theo vua cha đi đánh giặc tiến đến kinh đô Đồ Bàn, giết được chúa Chiêm, quân Chiêm tan tác, bỏ chạy tán loạn. Đến năm 1069, Thần lại theo vua anh Lý Thánh Tông (1054-1072) thân chinh Chiêm Thành, bắt được vua nước ấy là Chế Củ, Chế Củ xin giảng hòa dâng 3 châu: Địa Ly, Ma Linh, Bố Chính nên được tha về (Toàn thư tr.274).
Năm Đinh Tỵ (1077) quân Tống lại đem quân xâm lược nước ta. Thái úy Lý Thường Kiệt, tổng chi huy các lực lượng bộ binh, thủy binh giao cho Hoàng tử đảm nhiệm lực lượng thủy binh tiến quân tiêu diệt cụm quân của chánh Tướng Quách Quỳ ở Phả Lại, đánh ngược lên phía Bắc cùng phối hợp với đạo quân của Lý Thường Kiệt phản công mạnh mẽ, tiêu diệt phần lớn quân địch do phó tướng Triệu Tiết chỉ huy. Như vậy ngài đã 3 lần cầm quân đánh giặc và cả 3 lần đều chiến thắng khải hoàn trở về, Hoàng tử được nhà vua phong thưởng rất nhiều, nhưng ngài đã đem phân phát cho dân cả. 
19. Đình Yên Phụ ở phố Yên Hoa, p. Yên Phụ, q. Tây Hồ. Tương truyền, đình được xây dựng vào TK 17.
Thờ 3 anh em  Uy Linh Lang đại vương, Vương Duy đại vương và Vương Ba đại vương.
Uy Linh Lang là con trai của Hoàng hậu Minh Đức với vua Trần Thánh Tông (1258-1278). Năm Mậu Ngọ (1258) vừa 18 tuổi bị ốm chết.
(xem khảo cứu ở số (7/Tây Hồ).
20. Đình Yên Thái (Quán Linh từ) ở số 8 ngõ Tạm Thương, phố Hàng Gai, q. Hoàn Kiếm.
Về niên đại ra đời ngôi đình Yên Thái này, thì theo Giáo sư Trần Quốc Vượng cho biết “cung điện riêng vua cho dựng tại phường Kim Cổ (còn gọi là Cổ Vũ) để Nguyên phi Ỷ Lan ở khi mới về kinh thành. Cung xưa, sau trở thành chùa Kim Cổ, nay là số nhà 73 Đường Thành”. Thời gian Nguyên phi ở đây, bà đã cho dựng quán Đồng Thiên trong khu vực cung điện. Đầu thời Tây Sơn, quán được dời sang thôn An Thái  thì đình Yên Thái được xây dựng tôn tạo mới trên nền đền cũ. Như vậy, đình Yên Thái được xây dựng vào TK.18
Đình Yên Thái này thờ Nguyên phi Hoàng Thái hậu Ỷ Lan.
QUẬN THANH XUÂN
1. Đình, Chùa Cự Chính
é Chùa Cự Chính (Bồ Đề tự) ở số 190 phố Quan Nhân, p. Nhân Chính, q. Thanh Xuân.
Là ngôi chùa của làng Mọc Cự Chính xưa kia, tương truyền có từ trước TK 15. 
Khi tiến quân bao vây thành Đông Quan vào năm 1426, một cánh nghĩa quân Lam Sơn đã đóng bản doanh tại chùa Bồ Đề và đình Cự Chính bên cạnh.chùa. Chùa Cự Chính được sửa chữa, tôn tạo nhiều lần, gần đây nhất là vào năm 1998, 2009-2012, nên di tích xưa không còn lại bao nhiêu.
é Đình Cự Chính ở số 186 phố Quan Nhân, p. Nhân Chính, q. Thanh Xuân. Đình được xây muộn nhất cũng vào TK 17. 
Di tích liên quan đến việc nghĩa quân Lam Sơn vây hãm thành Đông Quan: một cánh của nghĩa quân Lam Sơn đã đóng bản doanh tại đây rồi bao vây thành Đông Quan, làm cho chủ tướng giặc Minh là Vương Thông phải đầu hàng và chấm dứt cuộc Bắc thuộc lần thứ hai vào năm 1427.
Tương truyền đình còn gọi đình Con Cóc vì có chạm hình đôi cóc trên trụ biểu, ngụ ý cầu trời mưa thuận gió hòa cho nhà nông được mùa. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra cuối năm 1946, ngôi đình bị phá hủy nặng nề, đến những năm 1990 đã được phục dựng và đến đầu thế kỷ 21 lại có trùng tu lớn.
Thờ Đức Thành hoàng Lã Đại Liệu (có thể là Lữ/Lã Đường), quê ở trang Liễu Chử huyện Siêu Loại, nay là xã Song Liễu, h. Thuận Thành, t. Bắc Ninh. Ngài là tướng của Ngô Quyền, khi nhà Ngô tan rã, ngài là một trong 12 sứ quân, chiếm cứ miền Tế Giang tức Văn Giang, t. Hưng Yên.
2. Đình, Chùa Giáp Nhất
é Chùa Giáp Nhất (Phúc Lam tự) hay Trùng Quang tự ở số 223 phố Giáp Nhất, p. Nhân Chính, q. Thanh Xuân. Tương truyền chùa đã được xây dựng từ lâu đời, trải qua nhiều lần trùng tu. Năm 1941, chùa có đợt trùng tu lớn và tô tượng. Năm 1972, bị bom Mỹ làm hư hỏng nhiều; năm 1973, dân làng quyên góp để khắc phục. Năm 2007, phật tử và Chính quyền địa phương bỏ ngân sách địa phương trùng tu lớn.
é Đình Giáp Nhất ở số 213 phố Giáp Nhất, p. Nhân Chính, q. Thanh Xuân, đình được xây dựng từ lâu trên một gò đất cao, ở bờ Nam sông Tô Lịch. Đình đã bị giặc Pháp đốt cháy, dân làng góp công góp của tái thiết, chẳng hạn  cổng đình và cổng làng Giáp Nhất đều do ông Đỗ Hữu Thục – tức Cai ba Thục, chủ Ty rượu Văn Điển và Quốc Bảo nổi tiếng hồi đầu TK 20 bỏ tiền công đức xây dựng. Năm 1986, Hậu cung của đình được tu sửa để lấy nơi thờ tự. Hai cột trụ chính trước cửa đình trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp đã bị đạn pháo phá hỏng cũng được sửa chữa lớn vào năm 1990, đồng thời cổng cũng được làm lại theo lối kiến trúc cũ và có quy mô như hiện nay.
Thờ Phùng Lương một vị tướng tài của Phùng Hưng. Tương truyền, ngài là cháu gọi Phùng Hưng bằng chú, theo chú suốt cuộc khởi nghĩa. Sau cuộc khởi nghĩa thắng lợi, để tưởng nhớ công lao của ngài với dân với nước, dân làng Giáp Nhất đã lập đền thờ ngài, tôn làm Thành hoàng làng và rước về thờ tại đình làng.
Lễ hội: 12/01
3. Đình Hội Xuân ở 144 phố Quan Nhân, p. Nhân Chính, q. Thanh Xuân.
Không tìm thấy tư liệu nào về năm kiến thiết và thờ tự ở ngôi đình này.
Lễ hội: 10-12/02
4. Đình, Chùa Khương Hạ
é Chùa Khương Hạ (Phụng Lộc tự) ở 108 Bùi Xương Trạch, p. Khương Đình, q. Thanh Xuân. Tương truyền ngôi chùa được xây dựng từ TK 17, qua nhiều lần sửa chữa trùng tu, nay rất khang trang trong một khuôn viên rộng.é Đình Khương Hạ (Đình Gừng) ở th. Khương Hạ, p. Khương Đình, q. Thanh Xuân.
Thờ Thành hoàng Lê Dương Vệ là một danh tướng triều Lê, chống Mạc, phò Lê Chiêu Tông ẩn tại đình làng Vòng.
5. Đình, Chùa Khương Trung
é Chùa Khương Trung ở bên trái tam quan, thẳng hàng với đình. Chưa rõ chùa xây dựng khi nào, nhưng hệ thống tượng trong chùa đều được tạo tác khá muộn, vào khoảng TK 19. Sang đầu TK 21, toà Tam bảo được đầu tư tôn tạo khang trang đẹp đẽ bằng nguồn kinh phí xã hội hoá.
é Đình Khương Trung ở số 245 phố Khương Trung,  p. Khương Trung, q. Thanh Xuân.
Đình, chùa Khương Trung bị Pháp đốt cháy để trả thù cho trận quân ta đánh sân bay Bạch Mai ngày 18/1/1950 phá hủy nhiều máy bay của chúng. Đến đầu những năm 90 TK 20 cùng sự hỗ trợ của chính quyền và đóng góp của nhân dân p. Khương Trung, đình, chùa Khương Trung mới dần được khôi phục kiến trúc theo hồi ức của các cụ cao tuổi trong làng. 
Thờ Trần Minh và Trần Quang đã cùng Vua Hùng thứ 18 đánh giặc và giúp dân Khương Trung sinh kế, khi mất hai ông được thờ làm thành hoàng làng. 
Ngoài ra ở đây còn có một ban thờ riêng cho mẹ con bà Trịnh Thị Quý, thời Lê-Trịnh. Bà quê Nam Định, không có con trai nên đã cúng hết ruộng vào chùa và được thờ hậu ở đình làng.
6. Chùa Phương Liệt (Linh Quang tự) được gọi theo tên làng còn có tên gọi là chùa Vọng. Được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 43 (1782) Phía sau tiền đường có xây dựng một dãy nhà làm nơi thờ Tổ, thờ Mẫu, bên phải được xây dựng một công trình để thờ các cô. Nhân dân trong vùng gọi là Lầu chúa. Các công trình trên đều đã được trùng tu, sửa chữa lớn 2 lần vào năm 1954 và năm 1990. 
7. Đình, Chùa Quan Nhân đều ở ngõ 144 Quan Nhân, p. Nhân Chính, q. Thanh Xuân.
é Chùa Quan Nhân (Sùng Phúc tự). Được xây dựng tại cánh Đồng Nền từ bao giờ chưa rõ, đến năm Chính Hòa 21 (1702) thì được chuyển về chỗ hiện nay.
Ngoài chức năng chủ yếu là thờ Phật, chùa Quan Nhân còn thờ Mẫu theo tín ngưỡng bản địa của người Việt như thờ Tổ, thờ Mẫu, thờ Đức Thánh Trần; chùa cũng là nơi hương khói thờ những người có công, gửi giỗ còn gọi là tục thờ Hậu.
é Đính Quan Nhân còn gọi là đình Mọc Quan Nhân. Được xây dựng tại cánh Đồng Nền từ bao giờ chưa rõ, đến năm Chính Hòa 21 (1702) thì được chuyển về chỗ hiện nay
Thờ Trung Nghĩa đại vương Hùng Lãng công, ngài là con thứ của Ninh Hải Quận Vương, cháu của Hùng Điền Vương. Ngài được sai giữ vùng Quan Nhân, từng được phong chức Thống lĩnh thủy bộ quân doanh có công dẹp giặc Nam Chiếu. Khi về thăm quê, ngài bị giặc vây đánh, buộc tự trầm mà chết ngày 2/8. Phu nhân là bà Dục Đức thủ tiết quyên sinh theo chồng ngày 12/10, sau được thờ trong Phủ Thánh Bà bên hữu mạc.
8. Chùa Tam Huyền (Sùng Phúc tự) ở số 47, ngõ 117 đường Khương Đình, p. Hạ Đình, q. Thanh Xuân. 
Theo thư tịch cổ, chùa Tam Huyền được xây dựng từ thời Lý, TK11-13, được tu sửa tôn tạo nhiều lần, tiêu biểu như các năm Quý Sửu,  Hoằng Định 14 (1613); năm Canh Tý, Cảnh Hưng 41 (1780). Đầu TK 20, chùa bị đổ nát hư hại nặng nên đã được trùng tu lớn năm Đinh Mùi, Duy Tân 2 (1907).
Trải qua thời gian và chiến tranh, chùa Tam Huyền đã bị phá huỷ, nên từ năm 1992, qua trùng tu lớn, chùa Tam Huyền đã được khôi phục phần nào quy mô ban đầu của di tích với đầy đủ hạng mục thiết yếu của một ngôi chùa thờ Phật. Ngôi chùa Tam Huyền gắn liền với nhân vật lịch sử là Tăng quan Đô sát Từ Vinh, thân phụ của Thiền sư Từ Đạo Hạnh (Từ Lộ).
Thiền sư Từ Đạo Hạnh là người đã đắc đạo, nổi tiếng đương thời, nên các triều đại phong kiến đều ban sắc phong làm phúc thần, do đó nhân dân địa phương đã tôn Từ Vinh làm Thánh phụ, thờ tại chùa Tam Huyền.
Hiện nay chùa còn bảo lưu được một số di vật có giá trị như một số bi ký, câu đối tạc bằng đá, ngưỡng cửa đá thời Lê. 
9. Đình, Chùa , Miếu Ông Trạng Phương Liệt ở p. Phương Liệt, q. Thanh Xuân.
é Đình Phương Liệt ở số 38 phố Phương Liệt, p. Phương Liệt, q. Thanh Xuân còn gọi là đình Vọng hay đình Giáp Cửu.
Theo truyền ngôn thì ngôi đình có từ lâu đời, qua trùng tu nhiều lần, dáng dấp ngôi đình ngày nay mang phong cách triều Nguyễn.
Thờ Cao Sơn đại vương, có công cùng Sơn Tinh chống lại Thủy Tinh. Thần tên  Nguyễn Hiền và em ruột Nguyễn Sùng (Quý Minh) là anh em con chú của Sơn Tinh (Tản Viên Sơn Thánh).
é Chùa Phương Liệt (Linh Quang tự).
Xây dựng năm Cảnh Hưng 43 (1782), được sửa chữa lớn 2 lần vào năm 1954 và 1990.
é Miếu Ông Trạng: Được xây dựng vào khoảng cuối TK 17.
Miếu thờ Lưu Danh Công (1644-1675) – người xã Phương Liệt, huyện Thanh Trì, nay là p. Phương Liệt, q. Thanh Xuân.
Năm 27 tuổi, Lưu Danh Công đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa Canh Tuất, niên hiệu Cảnh Trị thứ 8 (1670) triều vua Lê Huyền Tông. Lưu Danh Công làm quan đến chức Hàn lâm viện Thị độc, thọ 32 tuổi. Ngày nay, Miếu Ông Trạng nằm trong khu vực của Công ty Cơ điện Trần Phú. Trải qua thời gian, miếu cổ hỏng nặng, nhân dân đã xây dựng lại miếu trên nền cũ.
Lễ hội: 15/02 là lễ cầu phúc đầu xuân, ngày 16/8 là ngày sinh của Thánh, ngày 13/8 là ngày Thánh hoá,  04/4 giỗ Ông Trạng.
10. Đình, Chùa Quan Nhân cùng ở ngõ 144 phố Quan Nhân, p. Nhân Chính, q. Thanh Xuân.
é Chùa Quan Nhân: Hiện nay, chưa đủ cứ liệu để xác định được niên đại cụ thể hình thành ngôi chùa, nhưng căn cứ vào truyền ngôn và căn cứ vào nội dung tấm bia có niên đại Chính Hoà 22 (1701) tại đình này cùng bài minh trên chuông chùa, có thể đoán định chùa được xây dựng từ TK 17.
 Ngoài chức năng chủ yếu là thờ Phật, chùa Quan Nhân còn thờ Mẫu theo tín ngưỡng bản địa của người Việt như thờ Tổ, thờ Mẫu, thờ Đức Thánh Trần; chùa cũng là nơi hương khói thờ những người có công, gửi giỗ còn gọi là tục thờ Hậu
é Đình Quan Nhân lúc đầu được xây ở cánh đồng Nền Đình. Đến năm Chính Hòa 21 (1701) đình mới chuyển về trung tâm trang ấp tức vị trí bây giờ; trong đình hiện vẫn còn một tấm bia đá mang niên hiệu nói trên làm chứng.
Thờ Trung Nghĩa đại vương Hùng Lãng Công (cháu 9 đời Hùng Vương, là con trai thứ  của Ninh Hải quận vương, cháu Hùng Điền Vương), có công đánh giặc Nam Chiếu và Lục Nam. 
HUYỆN ĐÔNG ANH
1. Đền Ca công ở làng Lỗ Khê, x. Liên Hà, h. Đông Anh. Tại đây còn nhà thờ tổ nghề, gọi là đền thờ Ca Công, trong đó lưu một số văn bản Hán Nôm nói lên nguồn gốc của ca trù.
Trước hết là bản sao thần phả nhà thờ Ca Công Lỗ Khê do Tiến sĩ khoa Bính Tuất niên hiệu Quang Thuận (1466), Hộ bộ Thượng thư Đào Cử soạn năm Hồng Đức 7 (1476) thì ông tổ của ca trù Lỗ Khê là Đinh Dự (1413?) là con của Đinh Lễ – Từ nhỏ Đinh Dự đã rất thông minh, thích và giỏi đàn hát. Đinh Dự kết duyên với Đường Hoa Tiên Hải có tài về xướng ca, sau hai người trở về Lỗ Khê là quê mẹ Đinh Dự cùng lấy nghề ca hát, hình thành giáo phường Lỗ Khê, chuyên đi hát để động viên tướng sĩ đánh giặc, sau lại ca hát để vua quên đi bệnh tật. Khi đất nước hòa bình, ông bà được ban thưởng.   Sau hai ông bà cùng mất một ngày, dân làng Lỗ Khê lập đền thờ ông bà, gọi là Ca Công từ. Hiện nhà thờ 5 gian vẫn còn, năm 2001 được Nhà nước cấp kinh phí trùng tu. Trong nhà thờ còn tượng gỗ của hai ông bà đặt trong một khám. Ngoài ra, còn 5 đạo sắc (sao lại) của các triều vua phong cho Đinh Dự là Thanh Xà đại vương (do ông sinh năm Tỵ) và vợ ông là Mãn Đường Hoa công chúa. Theo đạo sắc ngày 15 tháng 6 năm Gia Long 9 (1810) thì nguyên gốc của ca trù Lỗ Khê mà đinh Dự và Đường Hoa thụ nghiệp là giáo phường huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa.
* Khảo cứu: Có 2 ông Đinh Lễ sống cùng thời:
a) Đinh Lễ- công thần khai quốc thời Lê Sơ  có em là  Đinh Liệt, người  bị chết trong trận đánh nhau với quân Minh ở Hồng Mai năm 1427, khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chưa dành được thắng lợi hoàn toàn (Bản kỷ toàn thư, q.10 tờ 30a).
b) Đinh Lễ cha Đinh Dự vốn là gia thần của Lê Lợi đến năm 1449 mới chết (Bản kỷ thực lục, q.11, tờ 77b).

2. Đình, Đền Cổ Loa ở x. Cổ Loa, Đông Anh.
Theo truyền thuyết thì nơi đây là nền nhà cũ của điện ngự triều, nơi các quan trong triều An Dương Vương hội họp. Qua am Mỵ Châu tới đền Thượng tức đền thờ An Dương Vương. Đền này mới được xây dựng lại hồi đầu TK 20, chỉ có đôi rồng đá ở bậc tam cấp là di vật đời Trần họặc Lê sơ. Trong đền có tượng An Dương Vương cũng mới được đúc. Trước đền có Ngọc Tỉnh (giếng Ngọc) được xem là nơi Trọng Thuỷ đã tự tử vì hối hận. 
Sau Thục Phán, năm 602 Hậu Lý Nam Đế Lý Phật Tử tới đây đóng đại bản doanh trước khi hàng Lưu Phương và chết. Năm 939, Ngô Quyền lên ngôi cũng đóng đô ở Cổ Loa.
Thờ An Dương Vương.
Lễ hội: 06/01 trong 10 ngày

 

Đình C Loa ( Ng triu di quy) trong khu di tích C Loa – Đông Anh – Hà Ni

3. Đình, Chùa Dục Tú ở th. Dục Tú, x. Dục Tú, h. Đông Anh.
é  Chùa Dục Tú (Tiên Cảnh tự) ra đời từ rất sớm, có thể là từ TK 8-11, trải qua nhiều đời trùng tu vào các vua đầu triều Nguyễn. Chùa hiện tại là phần kiến trúc nhà Thọ Tứ (?) của đình làng được dựng vào năm 1887.
é Đình Dục Tú tiền thân là ngôi đền thờ Sĩ Nhiếp. Chưa có tư liệu về năm khởi dựng ngôi đình. Bô lão trong làng cho biết, đình được trùng tu lần đầu vào giữa TK 17.
Thờ Thành hoàng làng là Sĩ Nhiếp Thứ sử Giao Châu. Cha Sĩ Nhiếp là Sĩ Tứ làm Thái thú Nhật Nam, tổ tiên là người Vấn Dương nước Lỗ, dời đến quận Thương Ngô, gặp loạn Vương Mãn (8-23) tránh sang nước ta, đến Sĩ Nhiếp là 6 đời.
Trong thời Hán Linh Đế (168-189), Sĩ Nhiếp làm Thứ sử Giao Châu đóng đô ở Luy Lâu. Năm 226 ông mất, ở quận 40 năm thọ hơn 90 tuổi. Về sau nhà Trần nước ta truy phong làm Thiên Cảm Gia Ứng Linh Vũ đại vương . Do thế mà tôn là Sĩ Vương. Sĩ Nhiếp còn được thờ ở Luy Lâu, nay là thôn Tam Á, x. Gia Đông, h. Thuận Thành, t. Bắc Ninh. 
4. Đình Hà Hương còn gọi là đình Giỗ Hương ở th. Hà Hương, x. Liên Hà, h. Đông Anh.  Đình được xây dựng trước năm 1629.
Thờ 2 vị Thành hoàng có công dưới thời  Hùng Vương thứ 6 là Thiên Uy đại vương và Minh Uy đại vương. Hai vị cùng Thánh Gióng đánh giặc Ân, xong bay về trời.
5. Đình Hà Lỗ ở th. Hà Lỗ, x. Liên Hà, h. Đông Anh. Có từ thời Hùng Vương thứ 6.
Thờ Thành hoàng là hai anh em Vũ Dức công và Vũ Minh công thời Vua Hùng thứ 6, có công cứu dân Hà Lỗ khỏi nạn dịch.
6. Đình Hà Vỹ ở th. Hà Vỹ, x. Liên Hà, h. Đông Anh. Tương truyền có từ năm 1426. Đã trải qua nhiều lần trùng tu vào TK 16, 18, 20.
Thờ 5 vị tướng có công với nước: Thủy Hải, Đăng Giang, Khổng Chúng (đời Hai Bà Trưng), Thánh Tam Giang (cuối Triệu Việt Vương), Đoàn Văn (con Đoàn Thượng, cuối Lý, đầu Trần).
7. Đình, miếu Lại Đà ở th. Lại Đà, x. Đông Hội, h. Đông Anh. Cụm di tích gồm: đình, chùa, miếu thì đình nằm ở trung tâm, bên trái là chùa, bên phải là miếu.
é Chùa Lại Đà: chưa tìm được tư liệu.
éĐình Lại Đà chưa có tư liệu chính xác ngôi đình được dựng năm nào. Làng Lại Đà bị chìm trong nước sau 3 trận vỡ đê năm 1945, 1957, 1971 nên đình làng bị hư hại nhiều. Hiện còn lưu giữ được 20 sắc phong, trong đó sớm nhất là sắc phong năm Khánh Đức 4 (1652). Như vậy, ít ra đình Lại Đà phải có từ đầu TK 17.
Thờ Trạng nguyên Nguyễn Hiền (1234-1276), đỗ Trạng nguyên năm 1247 khi mới 13 tuổi, lại có công đánh giặc Chiêm Thành.
é Miếu Lại Đà
Miếu thờ Mẫu Tiên Dung, có công âm phù giúp Nguyễn Hiền đánh quân Chiêm, được vua Trần phong phúc thần.
8. Đền Lê Tuấn Mậu (đền Cụ Tiết) ở th. Thụy Lôi, x. Thụy Lâm, h. Đông Anh. Đền được xây dựng vào giữa TK 17.
Thờ Lê Tuấn Mậu (Hoàng giáp, 1490), Mạc cướp ngôi Lê, ông về quê. Vua Mạc mời ra làm quan, trong một buổi chầu, ông định giết vua Mạc, không thành, ông bị vua Mạc giết. Đến niên hiệu Cảnh Trị (1663-1671) nhà Lê Trung Hưng, truy phong ông là bậc tiết nghĩa, phong làm thượng đẳng phúc thần, lập miếu thờ ông tại làng Thụy Lôi và giao cho nhân dân địa phương thờ phụng.
9. Đền Lê Xá ở th. Lê Xá, x. Mai Lâm, h. Đông Anh. Chưa có tư liệu chính xác cho biết đền khởi dựng khi nào. Nay căn cứ vào đồ thờ, các kết cấu kiến trúc và trang trí thì có thể suy đoán đền được dựng ít nhất từ giữa TK18 và được sửa chữa lớn vào năm 1922.
Thờ Đào Kỳ và bà Phương Dung là 2 vị tướng có công trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Hai người đã lập được nhiều công lao, sau nhà Hán sai Mã Viện sang xâm lược, Hai Bà Trưng thất trận. Đào Kỳ hi sinh, Phương Dung tuẫn tiết. Hai người được các đời vua sau phong làm thượng đẳng phúc thần và lập đền thờ ở thôn Lê Xá là hành cung khi xưa của thần.
10. Đình Lỗ Giao thuộc th. Lỗ Giao, x. Việt Hùng, h. Đông Anh. Chưa có tư liệu chính xác đình được khởi dựng khi nào, nhưng căn cứ vào các vật dụng thờ cúng tại đình thì có thể đoán định ngôi đình ít nhất đã được xây dựng từ giữa TK 17.
Đình Lỗ Giao thờ ba vị thành hoàng có công với dân với nước là Cao Sơn và Quý Minh – hai vị tướng có công giúp Hùng Duệ Vương đánh giặc đem lại thái bình cho đất nước, được phong  Thượng đẳng phúc thần: Cao Sơn linh ứng đại vương và Quý Minh linh ứng đại vương. Vị thần thứ ba là Ả Nương, là tướng tài của Hai Bà Trưng đánh đuổi giặc Đông Hán, thu phục 65 thành trì, mở đầu nền độc lập tự chủ của đất nước Việt vào năm 40 sau Công nguyên. Bà được suy tôn làm Đức Thánh Bà và các triều vua về sau phong và là Ả Nương Chinh Tĩnh phu nhân và Linh Ứng Diệu Thông Âm Phù Trợ Thuận phu nhân.
Lễ hội: 10/8
11. Đình Lỗ Khê ở th. Lỗ Khê x. Liên Hà, h. Đông Anh. Đình Lỗ Khê, ban đầu tương truyền là ngôi đền thờ Đệ nhất Thành hoàng Điện Hưng, được dân làng dựng lên vào cuối thời đại Hùng Vương ở bãi Đình Chiền, ngay trong khu vực đồn trại của ngài. Đến khoảng TK 3 dân làng chuyển đền từ ngoài đồng về chỗ hiện nay. Về sau đền được mở rồng và nâng cấp thành đình và thờ thêm 2 vị khác theo Lê Lợi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn năm 1418  là Dương Trực và Tô Quang cùng với thủy thần Út Đầu Rền, một vị tướng từ thời Hùng Vương từng được phong Phổ Tế Linh Ứng đại vương. Bốn vị thành hoàng này gọi chung là Vạn cổ tứ linh.
Theo thần tích, ngài Điện Hưng sinh năm 313 TCN. Mẹ là Vũ Thị Khang – người làng Mộ Trạch, nay thuộc xã Tân Hồng, h. Bình Giang, t. Hải Dương, rời quê đến x. Vạn Kỳ, h. Gia Định (nay là Gia Bình, Bắc Ninh), sau về làng Lỗ Khê, rồi sinh ra ngài. Lớn lên, Điện Hưng giúp vua Hùng đánh lại nhà Thục. Sau khi mất, ngài được dân làng Lỗ Khê thờ và các triều vua phong là Hiển Ứng Linh Phù đại vương, Thượng đẳng thần.
12. Miếu Mạch Lũng ở th. Mạch Lũng, x. Đại Mạch, h. Đông Anh. Chưa có tư liệu tin cậy về năm khởi dựng ngôi Miếu, nhưng trên vật dụng thờ cúng mang đậm nét hoa văn của nghệ thuật của thế kỷ 17-18.
Thờ 3 vị thần có công giúp Hùng Vương đánh giặc: Chàng Cả Minh Đỗ đại vương, Chàng Hai Minh Đỗ đại vương, Chàng Ba Minh Đỗ đại vương. Còn thờ mẹ của 3 vị là Thánh Mẫu Soa Nương vua bà.
Lễ hội: 10-12/02
13. Đình, Chùa  Mạch Tràng (Quang Linh tự) ở th. Mạch Tràng, x. Cổ Loa, h. Đông Anh.
Tên gọi Mạch Tràng có nhiều ý nghĩa:
Mạch là lúa mạch Thục Phán ban cho dân trồng ở đây, Tràng là trường học do Ngô Quyền cho mở khi đóng đô ở Cổ Loa. 
éChùa Mạch Tràng được xây dựng từ thời Hậu Lê và đã được trùng tu nhiều lần dưới thời nhà Nguyễn. Kết cấu của chùa theo kiểu nội công ngoại quốc. Thế nhưng, trong kháng chiến chống Pháp, nhà giải vũ, nhà hậu, hành lang bao quanh bên phải của chùa bị hư hỏng nặng. Vì thế hiện nay kiến trúc của chùa chỉ còn phần”ngoại quốc” ở phía Đông. Chùa có 32 pho tượng tròn được sơn son thếp vàng, thếp bạc một số tượng được tạo tác từ TK 17, còn đa phần ở TK 19. Điều này có thể phán ánh niên đại của chùa.
é Đình Mạch Tràng được xây dựng vào cuối TK 18: Chưa có tư liệu khác về ngôi đình này.
14. Đình Ngọc Chi, Miếu Vĩnh Thanh – đều thuộc x. Vĩnh Ngọc, h. Đông Anh.
éMiếu ở thôn Vĩnh Thanh có lẽ cũng được xây dựng vào thời Lê như đình Ngọc Chi chăng?
Đều thờ 3 cha con tướng Nội hầu Hãn Công (là con ông Đào Hoàng và bà Hoàng Thị Trung). Nội hầu lấy Ả Nương, sinh Đống công và Vực công. Ba cha con cùng làm quan thời vua Thục. Họ đều là tướng giỏi và trung thành của An Dương Vương. Khi Triệu Đà xâm lược nước ta, vua Thục cho phép Nội hầu tuyển trai tráng trong trang Chiêm Trạch làm thân binh, đồng thời cử  3 cha con đi đánh giặc. Họ đã lập được nhiều công lớn, nhưng về sau vua Thục mắc kế gian của Triệu Đà nên đã để mất nước. Trước đó cả ba cha con Nội hầu đều khuyên can nhưng không được, mới treo ấn từ quan lui về quê nhà. Sau khi chiếm được nước ta, Triệu Đà cho vời 3 cha con Nội hầu ra làm quan nhưng cả 3 đều kiên quyết chống lại và đều hi sinh anh dũng tại quê nhà. Để tưởng nhớ 3 ông, nhân dân Chiêm Trạch đã lập đền thờ và suy tôn 3 ông làm Thành hoàng làng. 
éĐình ở thôn Ngọc Chi được xây dựng từ thời Lê. Thờ đồng vị với Miếu Ngọc Chỉ.
15. Đình Nhạn Tái ở th. Nhạn Tái, x. Xuân Nộn, h. Đông Anh: Chưa rõ khởi dựng khi nào.
Đình Nhạn Tái hiện nay thờ 6 vị thành hoàng làng gồm Cao Sơn Đại Vương, Quốc Vương thiên sứ Nhã Lang (con Lý Phật Tử), Ả Lã Nàng Đê (tướng của Hai Bà Trưng), Tiến sĩ Đỗ Nhuận (đỗ khoa Bính Tuất niên hiệu Quang Thuận 1466, thành viên Hội Tao đàn)
Hai vị phúc thần còn lại chỉ còn mỹ tự là Sùng Nghiệp An dân đại vương và Cảm ứng Uy linh đại vương.
16. Đình Phúc Hậu ở th. Phúc Hậu, x. Dục Tú, h. Đông Anh. 
Qua sắc phong còn lưu giữ ở đình có thể nhận định đình Phúc Hậu được xây dựng vào thời Lê.
Thờ Tam Lang đại vương, một công thần triều Lý (con Lý Khánh Vân). Trong sự nghiệp xây dựng vương triều Lý, ông có nhiều công, ngay cả trong cuộc phản loạn của Đông Chinh Vương, Dục Thánh Vương, Vũ Đức Vương; Tam Lang đã cùng các triều thần tham gia việc trấn trị giữ yên việc nối ngôi của thái tử Phật Mã (Lý Thái Tông). Tam Lang được phong ấp ở vùng Hậu Trại về sau mất ở vùng này nên được nhân dân thờ. Ngày nay Hậu Trại đổi tên là Phúc Hậu. Vì miếu thờ ngày xưa không còn nên dân Phúc Hậu thờ ở đình. Thời Lê Thái Tổ sau khi bình định giặc Minh đã phong sắc cho ngài là Hiển Ứng đại vương.
17. Đền Sái  ở th. Thụy Lôi, x. Thụy Lâm, h. Đông Anh.
Tương truyền đền Sái gắn với sự tích vua Thục An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Bị yêu tinh Bạch Kê Tinh phá, được Huyền Thiên Trấn Vũ sai thần Kim Qui mách kế chém chết tinh gà trắng, thành mới xây xong. 
Đồng thời khu vực đền thờ này cũng là nơi mà Huyền Thiên Trấn Vũ tu luyện. Sau khi vua Lý Thái Tổ dời đô ra thành Thăng Long, ông đã đến khu vực núi Sái này cầu Huyền Thiên và cuối cùng sinh ra hoàng tử. Không chỉ thế, Huyền Thiên còn là người giúp vua, giúp dân diệt trừ con hồ ly tinh 9 đuôi. Để tưởng nhớ công đức của Huyền Thiên Trấn Vũ, vua Lý Thái Tổ đã đến tại khu vực Đền Sái và xin rước hiệu duệ của Huyền Thiên về để thờ tại đền Quán Thánh ngày nay. Vua Lý Thái Tổ còn cho xây đền ở đỉnh núi Thất Diệu để thờ.
Lễ hội: 11/01
18. Đình, Chùa Thái Bình 
é Chùa Thái Bình (Diên Phúc tự) ở th. Thái Bình, x. Mai Lâm, h. Đông Anh. Vào TK 11, thôn Thái Bình có một vị trí quan trọng đối với các vương triều Lý. Đây là quê hương của bà Phạm Thị đã sinh thành Lý Công Uẩn – người khai sáng ra triều Lý.
Tương truyền chùa được xây dựng từ thời Lý.
Theo thời gian do lũ lụt và chiến tranh, ngôi chùa đã xuống cấp trầm trọng. Đến khi được xếp hạng là Di tích cấp quốc gia, dân làng đã dời chùa đến vị trí an toàn bên trong đê. Gần đây đã được trùng tu.
Chùa Thái Bình theo hệ phái Bắc tông. Đặc biệt chùa còn lưu giữ được hơn 2000 kinh phật.
Diên Phúc tự có tường hoa bao kín, bên phải có cửa ngách thông sang đình Thái Bình.
é Đình Thái Bình: Chưa rõ được khởi dựng khi  nào. Hiện trong đình còn lưu giữ được nhiều mảng chạm khắc gỗ mang phong cách nghệ thuật TK 18-19. 
Thờ thành hoàng làng là Đào Kỳ và Phương Dung công chúa, là những danh tướng giúp Hai Bà Trưng đánh đuổi giặc Đông Hán (25-220). Đình còn thờ Lý Chiêu Hoàng. Tại đình Thái Bình, Bà được vinh danh là Nguyên Lý thần hiệu, Phật Kim Thượng hoàng Thái hậu Linh ứng, Phụ quốc hiển hựu khang dân chi thần và tặng phong mỹ tự là công thần.
Lễ hội: 12/3; 25/7 và 12-13/12
19. Đình, Chùa Thượng Lão đều ở th.  Xuân Canh, x. Xuân Canh, h. Đông Anh.
é Chùa Thượng Lão tức Chùa Quan Âm (Quan Âm tự) ra đời vào TK 17-18. Toàn bộ kiến trúc của chùa Quan Âm hiện còn là kết quả của lần trùng tu lớn vào năm Khải Định thứ 5 (1920). Chùa hiện có 41 pho tượng tròn, số lượng tương đối nhiều so với một số chùa khác trong khu vực.
éĐình Xuân Canh hay còn có tên là đình Thượng Lão, được xây dựng từ khá lâu đời, nhưng trải qua những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc, đến nay, đình không còn lưu giữ được những tư liệu nói về năm khởi dựng. Trong hệ thống sắc phong còn lưu giữ được có đạo sắc phong niên đại sớm là sắc Cảnh Hưng 4 (Quý Hợi, 1743) qua đó có thể nhận định di tích được ra đời từ trước năm 1743.
Thờ Thành hoàng làng Thần Cửa Ngọ đại vương – là người đã có công phù trợ cho Hai Bà Trưng đánh giặc Đông Hán (25-220), giành lại độc lập cho non sông đất nước.
Lễ hội: 16/3
20. Đền, Chùa Tó nằm trên đường Cao Lỗ, cạnh chợ Tó thuộc xã Uy Lỗ – xã trung tâm của huyện Đông Anh.
é Chùa Tó (Khánh Sơn tự): Chưa có tài liệu cho biết niên đại của chùa, nhưng tượng thờ theo phong cách nghệ thuật ở TK 19.
Chùa Tó tọa lạc trong khu vực cư trú đông đúc của chợ Tó. Ngoài phần kiến trúc, di tích có khuôn viên cây xanh bao quanh tạo cảnh quan và sự thanh tịnh nơi cửa thiền.
Thờ Triệu Việt Vương (Triệu Quang Phục) ở TK6 với trận chiến Đầm Dạ Trạch nổi tiếng. Ngoài ra còn thờ Đức Thánh Trần.
é Đền Tó: Kiến trúc của ngôi đền tuy không còn bảo lưu được đầy đủ vẻ bề thế cổ kính như xưa, song những gì còn lại và phần mới được trùng tu vẫn giữ được những đường nét của TK 19.
Đền Tó thờ vị thành hoàng cũng là vị vua nổi danh trong lịch sử dân tộc là An Dương Vương của nhà nước Âu Lạc vào TK 3 Tr.CN. 
Lễ hội: 04/01
21. Đình Vân Điểm ở th. Vân Điểm (tên Nôm là Kẻ Đóm), x. Vân Hà, h. Đông Anh. Hiện không còn tư liệu thành văn để biết thời gian chính xác xây dựng đình. Đình Vân Điểm đã từng nhiều  lần thay đổi vị trí và qua nhiều đợt trùng tu sửa chữa. Trận lụt năm Quý Tỵ đời Thành Thái (1893) làm đình bị hư hỏng nặng. Ngay sau đó dân làng đã góp tiền để tu sửa lại. Năm 1958 nhân dân lại một lần nữa tu sửa lại đình, hậu cung được tu sửa lần gần đây nhất là năm 1988. Hiện nay mặc dù không còn giữ lại được dáng vẻ như trước kia nhưng đình vẫn là một công trình kiến trúc cổ có nhiều giá trị.
Thờ Đức thánh Tam Giang (Trương Hống, Trương Hát) có công giúp Lý Nam Đế dẹp giặc dựng nhà nước Vạn Xuân.
HUYỆN GIA LÂM
1.Miếu Bản thuộc x. Kim Lan, h. Gia Lâm được xây dựng từ bao giờ đến nay còn chưa rõ. 
Thờ Đương Cảnh Thành hoàng Thạch Việt Phổ Phúc Linh Thánh và vợ là Vĩnh Phúc Khát Hòa phu nhân, ông bà được nhân dân thờ ở đình Kim Lan và Miếu Bản.
Sự tích của vị thần như sau: Ông Thạch Việt-Nguyễn Tôn Thần, quê Quảng Tín, Thương Ngô thuộc vùng núi Tản Viên. Cha mẹ ông giàu có hào hiệp, nhưng ngoài 40 vẫn chưa có con. Trong lòng buồn phiền, ông bà thường đến các đình chùa miếu để công đức tiền của làm nhiều việc thiện. Một ngay nọ, bà vừa chợp mắt ngủ, bỗng thấy cụ già râu tóc trắng xóa, tướng mạo đường hoàng, bảo với bà: “Ta vâng mệnh thượng đế ban cho nhà ngươi một đứa con..”. Bà choàng tỉnh, biết đó là một giấc mơ. Từ đó bà có thai rồi sinh hạ một người con trai hình dạng khôi ngô như con Phật và được đặt tên là Thạch Việt. Sau khi cha mẹ mất, Thạch Việt để tang 3 năm rồi từ biệt xóm làng cùng vợ là Trần Thị Khát đi về phía đông nam. Khi đi qua xã Kim Lan thấy nơi đây lúa má tốt tươi, dân chúng giàu có, bèn xin cư ngụ vào làm nhà sư ở chùa. Năm Ất Mão (1195) thi tam giáo đỗ xuất thân, ông lại ứng thí võ được bổ làm Trung vệ đại phu. Năm Mậu Thìn (1208), giặc Hán (?) ở châu Quốc Oai cướp bóc làng Thanh Oai và bọn Phạm Du ở Nghệ An làm phản. Ông vâng mệnh triều đình cùng Phạm Bỉnh Di đem quân đi dẹp giặc ở hai nơi. Do có công với nước nên vua đã phong ông là Huyết Thực Phúc Thần, sai các làng ấp mà trước đây ông ở lập miếu thờ. 
2. Chùa Bát Tràng (Kim Trúc tự)
Theo người dân trong làng, xưa làng Bát Tràng có chùa Am (Bách Linh tự, chùa Âm Hồn) và chùa Kim Trúc. Năm 1958, công trình đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải xây dựng đã lấy mất một phần chùa Kim Trúc, nên chùa được chuyển về vị trí hiện nay là trên khu đất của chùa Am. Căn cứ vào di vật là phiến đá cổ khắc chữ Hán tại chùa có thể khẳng định chùa Kim Trúc được khởi công xây dựng vào năm Vĩnh Hựu thứ nhất triều Lê (1734). Ngôi chùa mới ra đời với quy mô bề thế hơn chùa cũ.
3. Đình Bình Minh và Di tích Cổ Bi hiện nay thuộc tổ dân phố Bình Minh, thị trấn Trâu Quỳ, h. Gia Lâm. Quy mô kiến trúc ngôi đình hiện thấy là kết quả của hai đợt trùng tu vào các năm 1998 và năm 2005. Cổ Bi có vị thế đắc địa, chúa Trịnh Cương định cho chuyển đô sang đây nhưng về sau chỉ cho xây dựng hành cung để nghỉ ngơi mỗi khi đi tuần du. Sau khi chúa Trịnh Cương mất (1729), chúa Trịnh Giang (1729-1740) kế vị cho dỡ bỏ đem vật liệu xây dựng chùa Quỳnh Lâm và Sùng Nghiêm thuộc huyện Đông Triều tỉnh Hải Dương. Dẫu sau này được chúa Trịnh Doanh (1740-1767) cho sửa lại hành cung Cổ Bi nhưng cũng không thoát khỏi ngọn lửa trả thù của vua Lê Chiêu Thống (1787-1788) thiêu rụi.
4. Đình Chử Xá ở x. Văn Đức, h. Gia Lâm. 
Chử Xá lại là quê hương của nhân vật huyền thoại Chử Đồng Tử. Vào TK 6, Triệu Quang Phục chống giặc ở Đầm Dạ Trạch được Chử Đồng Tử trao cho vuốt rồng bảo đeo lên mũ đầu mâu có thể diệt được giặc. Sau này Triệu Quang Phục chém được giặc Lương là Dương Sàn tự lập làm Triệu Việt Vương. Nhớ ơn công lao âm phù của Tiên Dung và Chử Đồng Tử, nhân dân trong vùng đều lập đền thờ, các triều vua luôn ban sắc cho hai người. Đình Chử Xá có tiếng thiêng vì là nơi thờ Thánh Chử Đạo Tổ (1 trong “tứ bất tử” của Việt Nam là đức Thánh Tản, đức Thánh Gióng, Thánh Chử Đạo Tổ và Thánh mẫu Liễu Hạnh). Ngôi đình có niên đại từ TK 17, thời Lê Trung Hưng
Thờ Chủ Đồng Tử và Tiên Dung. 
Đình Chử Xá hiện còn lưu giữ được bộ sưu tập di vật nhiều về số lượng, đa dạng về chủng loại và có giá trị lịch sử văn hóa nghệ thuật cao, trong đó tiêu biểu nhất là bộ sắc phong thần 47 đạo, có niên đại trải dài từ triều Lê đến triều Nguyễn.
5. Đình, Miếu Công Đình nằm cạnh nhau trên đất thôn Công Đình, x. Đình Xuyên, h. Gia Lâm. 
éĐình khởi dựng năm 1668, đã trải qua nhiều lần trùng tu nhưng vẫn còn giữ được dấu ấn ban đầu mang phong cách nghệ thuật kiến trúc thời Lê Trung Hưng. 
Thờ Thành hoàng là Đức Tả Phù, người Phù Ninh, đánh giặc Bầu (?) nổi dậy ở miền ngược có công. Không rõ thời nào.
éMiếu Công Đình thờ Nguyễn Nộn, người làng Phù Đổng, thời Lý xưng Hoài Đạo Vương. Đến thời Trần, được phong Vương và gả cho công chúa. Ông chết năm 1129.
6. Đình, Chùa Cổ Giang 
é Chùa Cổ Giang (Hồng Ân tự) ở th. Cổ Giang, x. Lệ Chi, h. Gia Lâm.
Một tấm bia trong chùa cho biết chùa Cổ Giang được khởi dựng từ thờ Lê, nhưng các trang trí trên kiến trúc của chùa mang phong cách nghệ thuật điêu khắc thời Nguyễn TK 19-20. Chùa còn lưu giữ được 3 tấm bia thời Lê
é Đình Cổ Giang hay Cổ Biện thuộc x. Lệ Chi, h. Gia Lâm. Chưa có tư liệu chính thức xác định niên đại ngôi đình, nhưng các di vật tại đình sớm nhất là tấm bia niên hiệu Chính Hòa 17 (1696). Qua đó có thể xác định sơ bộ đình Cô Giang đã có từ khoảng cuối TK 17.
Thờ 2 vị phúc thần: một vị dương thần và một vị âm thần. Vị dương thần là Nguyễn Chúng Nhân đã có công phù nhà Lê đánh giặc Minh.
Lễ hội: 12/3
7. Đình, Chùa Dương Hà Hạ
é  Chùa Dương Hà Hạ (Hiển Quang tự) đã có từ thời Hai Bà Trưng thờ ông Hà Uyên đã giúp Hai Bà đánh Tô Định được phong Trung đẳng Phúc thần Thành hoàng th. Trung, x. Dương Hà.
Vị sư đầu tiên trụ trì Chùa là Huyền Trang Đại Sư. Ông mất ngày 13 tháng 3, nhân dân tưởng nhớ khắc bia phụng thờ. Hiện nay vẫn còn tấm bia bốn mặt dựng năm 1040 đời Vua Lý Phật Mã khắc đề: “Cao Tôn Hoàng Đế – Cửu Thiên Huyền Nữ – Huyền Trang Đại Sư – Hiển Quang Phụng Tự”. Trải qua sự biến thiên của thời gian, sự biến đổi qua các thời kỳ lịch sử các triều đại Lý – Trần – Lê, chùa đã được nhiều lần trùng tu như đời nhà Lê năm 1656, ở thôn Trung có ông Đỗ Công Thông và vợ là Ngô Thị Ngọc Hy làm quan trong triều đến chức Tư Lễ giám, vợ chồng ông đã bỏ tiền bạc ra tu bổ chùa Hiển Quang, hiến 10 mẫu 6 sào vào chùa để thờ cúng Phật. Đặc biệt năm 1971, đê sông Đuống bị vỡ, chùa bị lũ lụt chỉ còn lại đống gạch đổ nát. 
é Đình thôn Hạ x. Dương Hà, h. Gia Lâm còn có tên đình Hạ Dương. Được xây dựng vào cuối triều Lê. Đến thời Tự Đức, ruộng đất bờ Nam bị lở xuống sông, dân làng chuyển dần sang bờ Bắc, rồi đình làng cũng được chuyển sang theo. Đến năm 1896, bờ Bắc sông Đuống lại tiếp tục lở, dân làng lại chuyển ngôi đình vào sát chân đê như chỗ hiện nay. Năm 1958 do đình xuống cấp nặng nên phải sửa chữa lớn. Năm 1986, đình được đại trùng tu từ ngân sách nhà nước và sự đóng góp của nhân dân. 
Thờ vị phúc thần Điện Lợi đại vương-một danh tướng thời Hai Bà Trưng có nhiều công lao giúp nước chống giặc ngoại xâm. Đến thời Đinh, ngài còn âm phù giải vây cho Đinh Tiên Hoàng khi dẹp loạn 12 sứ quân. 
8. Đình, Chùa Dương Quang
Dương Quang  là một xã thuộc h. Gia Lâm, có 8 thôn: Yên Mỹ, Bình Trù, Đề Trụ, Quang Trung, Bài Tâm, Tự Môn, Lam Cầu và Quán Khê.
Hiện nay xã Dương Quang có 5 ngôi chùa:
1- Chùa Báo Ân (Báo Ân tự) được xây dựng từ thời Lý Thái Tổ với tên chùa Thiên Đức.
2- Chùa Yên Mỹ được xây dựng ở thôn Yên Mỹ thờ Pháp Điện. Chùa được xây dựng vào TK 18-19.
3- Chùa Dương Quang, niên đại xây dựng cụ thể không còn tài liệu nào ghi chép lại nhưng qua hệ thống văn bia hiện còn lưu giữ tại chùa có thể đoán định niên đại khởi dựng ngôi chùa vào thời Lê Trung Hưng TK 17. Hai tấm bia dựng từ năm Chính Hòa 18 (1679) ghi việc ông Đỗ Tướng công (Đỗ Công Thông), vợ là Ngô Thị (Ngô Thị Ngọc Hy) đã bỏ tiền của nhà ra mua gỗ lim và gạch ngói để làm một dãy nhà thiêu hương và tiền đường làm nơi thờ phụng, lại cúng ba sào ruộng giúp việc cúng dưỡng. Những năm sau đó, chùa Dương Quang còn được trùng tu, sửa chữa nhiều lần.
 Lễ hội: 14/4.
Chưa tra cứu được 2 chùa còn lại.
é Hiện nay xã Dương Quang có: 8 ngôi đình. 
1- Đình Yên Mỹ được xây dựng cách đây khoảng 700 năm ở thôn Yên Mỹ, thờ vị Thành Hoàng làng là: Quảng Độ đại vương. 
2- Đình Lam Cầu được xây dựng ở thôn Lam Cầu vào cuối thời hậu Lê, thờ vị Thần Long Đỗ hiệu là Quảng Lợi Bạch Mã đại vương. 
Chưa tra cứu được 6 ngôi đình còn lại.
9. Đình Đại Bản  ở x. Phú Thị h. Gia Lâm.
Có thể đình được xây dựng vào TK 17-18.
Thờ vị phúc thần là cư sĩ Hoàng Hóa đại vương. Theo truyền thuyết dân gian ở địa phương và cuốn thần tích còn lưu tại đình cho biết cư sĩ Hoàng Hoá đại vương là vị thượng đẳng thần của đời Trần: “Thời ấy ở xứ Thanh Hoá, huyện Đông Sơn, phủ Thiện Thiên có cụ ông họ Nguyễn tên là Thành lấy bà tên là Đinh Thị Phương. Hai ông bà sống với nhau trên 20 năm mà chưa có con. Nghe nói ở Châu Long Nghệ An có thần núi Hồng Sơn rất linh thiêng, nhiều người đến cầu tự được như ý. Hai ông bà chọn ngày lành đến Hồng Sơn cầu tự và nghỉ lại một đêm tại đó, bà Phương bỗng thấy một luồng ánh sáng đỏ nhập vào người sau đó trở về nhà bà đã có mang và sinh được một người con trai tướng mạo rất khôi ngô, đẹp đẽ khác thường. Khi lên 7 tuổi, ông Thành mới đặt tên con là Hoa và cho đến nhà cụ đồ Phán cùng làng để học, năm 15 tuổi ngài đã tinh thông kinh sử. Đến năm ngài 20 tuổi, bố mẹ của ngài cùng mất một năm. Sau 3 năm đoạn tang cha mẹ, ngài nghe nói ngài có một bà cô ở trại Đồng Bản, trang Hàn Lạc, ấp Kim Sơn, huyện Gia Lâm, phủ Thiên An, quận Vũ Ninh. Ngài tìm đến bà cô ở để dạy học và có rất đông đệ tử. Năm 30 tuổi ngài về quê thi đậu hương cống. Ba năm sau, khi vua Trần Anh Tông (1293-1314)  mở hội thi, ngài đỗ tiến sỹ và được bổ làm đốc ty sau đó làm hữu tham nghị. Ngài làm quan hơn 20 năm tính tình rất khoan dung, độ lượng nên được mọi người yêu mến, tôn kính. Gần 60 tuổi ngài dâng sớ xin về nghỉ ở quê nhà. Năm 60 tuổi, ngài từ Thanh Hoá ra Đồng Bản để nhàn du, an dưỡng tuổi già  cấp và cho dân làng Đồng Bản một nghìn xâu tiền mà nói với các già làng rằng: “Khi ta chết thì sẽ làm thần của nơi này”. Mọi người đều lấy làm hoan hỉ. Ở Đồng Bản một thời gian, ngài lại về Thanh Hoá. Năm 70 tuổi ngài mất vào ngày 25/12. Ngay lúc đó dân Đồng Bản vào Thanh Hoá gặp con trai trưởng của ngài xin thuỵ hiệu của ngài về làng để thờ. Thuỵ hiệu của ngài là “Cư sĩ Hoàng Hoá đại vương” và tâu lên vua, được vua cho phép dân Đồng Bản, Hàn Lạc thờ cúng. Khi Lê Lợi khởi nghĩa, trong ngoài gặp khó khăn, cũng từng đến đền thờ ngài khấn nguyện đã được linh ứng nên phong cho ngài là: “Cư sĩ Hoàng Hoá bảo hộ đại vương, thượng đẳng thần”.
10. Chùa Đại Bi thuộc xóm 8 th. Ninh Giang, x. Ninh Hiệp, h. Gia Lâm. Theo truyền ngôn thì ngôi chùa đã bị cháy vào  ngày 22/9/ Mậu Dần (?), nhưng ngay sau đó được khôi phục. Căn cứ vào hiện vật có thể suy đoán chùa được xây dựng từ TK 17.
11. Đình, Chùa Đông Dư Thượng, Hạ 
é Chùa Phù Quang là ngôi chùa chung của 2 làng Đông Dư Thượng và Đông Dư Hạ nằm trên phần đất bãi của thôn Hạ.
é Đình Đông Dư Hạ thuộc thôn Đông Dư Hạ, xã Đông Dư, huyện Gia Lâm. 
Hai thôn Đông Dư Thượng – Hạ trước đây đều có đình, song đã bị tàn phá trong kháng chiến chống Pháp, nay mới được khôi phục. Cả hai đình Đông Dư Thượng và Đông Dự Hạ cùng thờ ba vị thành hoàng là Cao Sơn đại vương, Bạch Đa đại vương và Linh Lang đại vương. Riêng đình thôn Thượng còn thờ thêm Khang Trí đại vương là “Đông Nam Tây Bắc quản đô đại thành hoàng” (đây hoặc là vị thành hoàng cai quản một vùng rộng lớn hoặc là vị thần cai quản các con hào bao quanh các thành cổ, song chưa rõ vì sao làng lại thờ vị này). 
Ở đình Đông Dư Hạ hiện có 6 đạo sắc phong cho vị thần Bạch Đa, sắc sớm nhất vào năm Vĩnh Khánh 2 (1730), sắc muộn nhất là năm Khải Định 2 (1927).
12. Đình Gia Lâm ở x. Lệ Chi, h. Gia Lâm.
Thờ Hộ pháp cư sĩ họ Đặng, ông sinh năm 26 TCN, vào thời Hán Thành Đế Lưu Ngao (32-7 TCN), ngài được Hán Bình Đế Lưu Khan (1 TCN-5SCN) sai cầm quân chống lại Vương Mãn (8-23 SCN).
Chú ý: Trong sách “Đình và Đền Hà Nội” do Nguyễn Thế Long soạn, NXB VHTT ấn hành năm 2005, đã không tra cứu kỹ Lịch sử TQ nên viết sai cả. Các niên biểu, triều đại viết ở trên là do chúng tôi đã sửa lại cho đúng.
13. Đình Giao Tự ở  th. Giao Tự, x. Kim Sơn, h. Gia Lâm. Đình Giao Tự vốn là một ngôi miếu sau cải tạo thành đình. Thôn Giao Tự lại có chùa Linh Tiên, là nơi bà Lý Chiêu Hoàng (1218 – 1278) – vị vua cuối cùng của nhà Lý về tu hành một thời gian, sau khi bị chồng là Trần Cảnh (Trần Thái Tông) giáng xuống làm công chúa năm 1237. Sau này, Vua Trần Anh Tông (1293-1314) có lần đi kinh lý vùng Dâu đã đến làng Giao Tự. Đêm nằm mộng thấy bà Lý Chiêu Hoàng hiện về, bèn cho dân làng 5 thỏi vàng, 5 nén bạc và sức cho dân làng lập miếu thờ bà Lý Chiêu Hoàng. Đến cuối TK17, một người trong làng là Đặng Quang Tiến, làm quan đến chức Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, tước Phương Đình hầu đã bỏ tiền bổng lộc để dân làng mua gỗ, cải tạo miếu thành đình, lại hiến ruộng cho làng nên được bầu làm hậu thần. Tấm bia trụ dựng năm Vinh Trị thứ tư (1679) ở sân đình nói rõ điều đó. 
Thờ Lý Chiêu Hoàng
Lễ hội: 13-15/3
14. Đình Giang Cao ở th. Giang Cao x. Bát Tràng, h. Gia Lâm.
Thôn Giang Cao làm nông nghiệpĐến nay chưa rõ đình được xây dựng khi nào.
Thờ 2 vị dương thần là Phùng Sơn, Phùng Di và 2 vị âm thần là Hải Nương công chúa và Tỷ Nương công chúa.
Cả 4 vị đều không rõ vì không có thần tích.
Lễ hội: 15/02
15. Chùa Hạ  (Hiển Quang tự), thuộc th. Hạ, x. Dương Hà, h.  Gia Lâm. 
Khởi dựng khoảng cuối thời Lê, là một ngôi chùa có quy mô lớn. Chùa đã qua nhiều lần di chuyển và trùng tu sửa chữa. Quy mô xưa không còn, các vết tích xưa cũng không được lưu lại. Do điều kiện địa hình gần sông nước nên chùa Hạ còn thờ mẫu Thoải. Vua Lê Thánh Tông (1460-1497) khi kéo quân đánh giặc phương Nam, thuyền nhà vua vừa gặp cuồng phong, các bà sai tướng giúp dẹp yên gió và vị tướng ấy được vua phong là Nguyệt Nga công chúa. Chùa Hiển Quang được xây dựng ở bên Nam sông Đuống. Thời vua Tự Đức cho khai sông làm lòng sông rộng ra, dân làng đã phải chuyển lui vào và chuyển luôn cả chùa. Vào triều vua Thành Thái, dòng sông Đuống lại tiếp tục mở rộng, 70 mẫu đất của dân làng bị lở xuống sông, dân làng lại một lần nữa chuyển chùa vào vị trí hiện nay. Mỗi lần di chuyển chùa là một lần sửa chữa lớn.
16. Đình Hạ Thôn có tên Nôm là làng Nành thuộc x. Ninh Hiệp, h. Gia Lâm.
Trước đây, 3 thôn Thượng, Trung, Hạ có một ngôi đình chung. Đình Hạ Thôn được xây dựng vào năm 1685 trên cơ sở nhường lại quyền sử dụng ngôi đình chung cho 2 thôn kia.
Lý do là thời gian này, Hạ Thôn có ông họ Nguyễn làm quan tới chức Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Đô đốc thần vũ Tứ vệ quân vụ sự, thăng Đề đốc, tước Vịnh Quốc công cùng phu nhân là Đào Thị Quý, ngoài việc bỏ tiền bạc xây chùa riêng cho Hạ Thôn còn cúng thêm 200 quan tiền cổ, 7 mẫu ruộng vào đình để cúng dường. Về sau đình được trùng tu, sửa chữa nhiều lần. Điều đó lý giải sự pha tạp của hai phong cách kiến trúc nghệ thuật Lê và Nguyễn trên ngôi đình hiện nay.
Đình Hạ Thôn thờ thần Lữ Gia – một nhân vật lịch sử thời  nhà Triệu (207TCN-111TCN). Lữ Gia là Tể tướng của vua thứ 5, cũng là vị vua cuối cùng của nhà Triệu, kiên quyết chống lại âm mưu thôn tính của nhà Hán, nhưng bị thất bại bị Hán Vũ Đế (194-188 TCN) giết chết, nhà Triệu bị diệt, biến thành quận huyện của nhà Hán.
Ngoài thần hoàng Lữ Gia, đình Hạ Thôn còn phụng thờ ông họ Nguyễn nói trên làm Á thánh 
17. Chùa Hiển Quang (Hiển Quang tự) thuộc x. Dương Hà, h. Gia Lâm.
Theo văn bia còn lưu giữ tại chùa Hiển Quang thì xưa kia chùa có quy mô lớn, nhưng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp đã bị bom đạn phá hủy, chùa mới được làm lại. Hệ thống tượng của chùa có phong cách điêu khắc TK 19. Các đồ tế khí cũng cỡ niên đại ấy. Nhưng chùa còn giữ được một bia đá nên hiệu Chính Hòa đời vua Lê Hy Tông (1676-1705). Thế thì, ít ra chùa Hiển Quang cũng được xây dựng từ nửa đầu TK 17. 
18. Đình Hiệp Phù ở th. 6, x. Ninh Hiệp, h. Gia Lâm. Thông qua hệ thống sắc phong, thần phả hiện còn tại đình cho phép xác định đình Hiệp Phù có niên đại xây dựng vào thời Lê Sơ. Năm Thống Nguyên thứ nhât (1552) đình bị cháy, đến năm 1714, đình bị dột nát không sử dụng được, ông Nguyễn Đình Kiều, con rể của làng cùng vợ là Nguyễn Thị Thắm xin đem tiền lợp lại cả đình và miếu từ đó đình được khang trang. 
Là nơi tưởng niệm vị thần Bạch Sam – người có đóng góp lớn trong công cuộc chống giặc ngoại xâm thời Hùng Vương thứ 6. Ngoài thờ thần Bạch Sam, đình Hiệp Phù hiện nay còn được phối thờ Lý Nương Nương và thờ hậu một số người có công đức sửa chữa đình.
Hiện nay, thôn Hiệp Phù vẫn còn có một ngôi mộ tương truyền là mộ của vị thần Bạch Sam. Khu lăng mộ hiện nay được xây dựng khang trang nằm sát khuôn viên của Uỷ ban nhân dân xã Ninh Hiệp, cạnh đài tượng niệm liệt sỹ. 
19. Đình Hoàng Long thuộc th. Hoàng Long, x Đặng Xá, h. Gia Lâm.
Các hiện vật ở ngôi đình mang phong cách mỹ thuật TK 19-20.
Thờ hai vị thần là Viễn Sơn Linh công đại vương và Ất Sơn Quý công đại vương đã có công giúp vua Hùng thứ 18 dẹp giặc ngoại xâm.
Lễ hội: 10-12/3
20. Đình, Chùa Hương Hải (Hương Hải Thiền tự) ở thôn Chi Đông, thuộc x. Lệ Chi, h. Gia Lâm. 
Chùa và Đình làng hình thành từ bao giờ, đến nay không còn chút cứ liệu lịch sử nào cụ thể. Nhưng căn cứ vào cột hương đá còn lại trước sân chùa, dòng chữ trên đá đã phai mờ nhưng kiểu dáng và hình thức trụ đá thời Hậu Lê là điều có thể khẳng định. Củng cố thêm cho nhận định trên là 14 đạo sắc phong thần do các triều vua ban thì có 2 sắc Cảnh Hưng nhị niên (1741).
éChùa Hương Hải (gọi tắt của tên Hương Hải Thiền tự) là ngôi chùa cổ lâu đời, nằm ngay bên trái của Đình Chi Đông. Chùa được đặt tên là Hương Hải. Ngôi chùa cổ lâu đời, nằm ngay bên trái của đình Chi Đông. Chùa Hương Hải hiện còn lưu giữ một hệ thống tượng tròn, trong đó có nhiều pho tượng được tạo tác vào thời Lê, đầu thời Nguyễn
é Đình Hương Hải thờ Thành hoàng là Trâu Đô thống, một vị tướng thời Hùng Vương, có công giúp Đổng Thiên Vương đánh giặc Ân. Về sau, nhân dân còn suy tôn danh tướng triều Trần là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. 
Từ năm 2000, đình đã được nhà nước đầu tư tu sửa nhân kỷ niệm 990 năm Thăng Long – Hà Nội. 
21. Nghè Keo (Giao Tất) ở x. Kim Sơn, h. Gia Lâm. Chưa có tư liệu rõ ràng về năm khởi dựng Nghè Keo.
Thờ Đào Phúc cùng vợ là Tiên Anh, ông bà Đinh Dự và Mãn Đường Hoa tổ nghề ca trù và Quận công họ Đỗ. 
*Đào Phúc và Tiên Anh: Theo truyền thuyết dân gian thì Đào Phúc là con Đào Bột quê Thanh Hóa và bà Nguyễn Thị Lương người làng Keo có công được vua gả con gái Tiên Anh.
Vào cuối đời Lý có giặc đến xâm lược, Đào Phúc được vua phong là Phò mã, giữ chức thượng tướng quân đem hùng binh đi đánh dẹp, Tiên Anh phu nhân xin vua giao cho việc lương thảo giúp chồng sớm trừ được bọn đạo tặc ngoài biển cả xa xôi. Từ đầu xuân đến lập hạ, giặc bể đã bị quét sạch. Thượng tướng quân Đào Phúc lai kinh báo tiệp. Về đến quê nhà giữa mùa mưa to gió lớn, tướng quân gặp lại Tiên Anh, cùng nhau bái tổ đường ở Giao Tất. Hôm ấy là mùng 7 tháng 4, trời đất chuyển vần, sấm sét nổi lên cả hai ông bà đều hóa và sau đó mối dùn lên thành Mộ, dân làng gọi là Núi Bi. Sự việc được tâu vua, vua lệnh địa phương lập đền và tạc tượng để thờ hai ông bà. 
*Ông Đinh Dự và Mãn Đường Hoa – tổ nghề ca trù, xin xem Đền Ca Công ở Đông Anh.
*Quận công họ Đỗ là hậu thần của làng. Thiếu bảo Đỗ tướng công tên tự Như Triều, thụy Mẫn Đạt là danh tướng phương Bắc, nhưng lại là trọng thần nước Nam, giúp nhà Lý có công. Khi thấy chùa Giao Tất, Giao Tự đổ nát, ông bỏ tiền ra xây dựng lại, còn cho dân nhiều tiền và ruộng để cày cấy lo việc thờ cúng.
Lễ hội: 13/11
22. Đình, Nghè Kim Sơn ở x. Kim Sơn, h. Gia Lâm.
é Đình Kim Sơn: Chưa có tư liệu thành văn về niên đại ngôi đình. Nhưng hiện tại trong đình Kim Sơn còn lưu giữ 17 sắc phong của các triều đại phong kiến từ thời Lê Trung Hưng đến thời Nguyễn. Những di vật khác như hương án, bài vị, long ngai đều được chạm khắc tinh tế với rất nhiều hình tượng chim muông, hoa lá, mây sóng… mang đậm phong cách nghệ thuật TK 17-18. Các cỗ kiệu rồng được tạo tác vào TK 19. Đặc biệt có cổ vật từ thế kỷ 15 gồm hai pho tượng phỗng bằng gỗ. Từ đó cho phép suy đoán đình Kim Sơn có thể đã tồn tại từ TK 15.
Thờ hai anh em sinh đôi Cao Điền và Cao Đỗ (con ông Cao Trạch và bà Lê thị), có công giúp Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân.
éNghè Kim Sơn là nơi gốc thờ 2 vị Thành hoàng, chính là dinh của 2 ông lúc sinh thời.
23. Đình, Chùa Kim Lan đều ở th. Kim Quan, x. Kim Lan, h. Gia Lâm
é Chùa Kim Lan (Linh Ứng tự) trước kia thuộc xóm Chùa nay là th. 2, x. Kim Lan, h. Gia Lâm. 
Chùa Kim Lan được khởi dựng từ TK 6-7. Trải qua thời gian, ngôi chùa đã được tôn tạo nhiều lần. Năm 1870, chùa được xây dựng với quy mô lớn. Căn cứ vào khối kiến trúc vật chất và những di vật hiện còn có thể suy đoán chùa Kim Lan được xây dựng vào cuối thời Lê và được trùng tu nhiều lần vào thời Nguyễn. 
é Đình Kim Lan
Kim Lan có đình, bốn miếu, bốn chùa, cùng văn chỉ và nhà thờ Thiên chúa giáo, có Gò Quốc công ở xóm Hậu, là nơi đặt phần mộ của Quốc công Lê Khả Lãng – một trong những người tham gia Hội thề Lũng Nhai (1416), lập được nhiều công trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân xâm lược Minh, được phong Bình Ngô khai quốc, Thái uý.
Thờ Thành hoàng Thạch Việt Phổ Phúc Linh Thánh và vợ là Vĩnh Phúc Khát Hòa phu nhân.(xem thần tích ở Miếu Bản)
24. Đình, Chùa Kim Âu đều ở th. Kim Âu, x. Đặng Xá, h. Gia Lâm.
é Chùa Kim Âu (Am Vàng tự): Không có tư liệu thành văn nào cho biết chùa Kim Âu được khởi dựng khi nào, nhưng căn cứ vào tấm bia “Kỵ điền bi” niên hiệu Dương Hoà thứ 5 (1639) thì có thể suy đoán ngôi chùa được dựng muộn nhất cũng vào khoảng đầu TK 17.
Chùa Kim Âu nằm phía bên phải đình, là nơi thờ Phật và thờ mẫu, thờ tổ – nơi gắn kết giữa tín ngưỡng dân gian truyền thống và tôn giáo được du nhập. 
é Đình Kim Âu: Chưa rõ được xây dựng khi nào.
Thờ Linh Lang đại vương làm thành hoàng làng.
25. Đình Lam Cầu ở th. Lam Cầu, x. Dương Quang, h. Gia Lâm. 
Theo các cụ cao tuổi ở địa phương thì ngôi đình chính là nhà oản của bà vợ chúa Trịnh bán lại cho làng khi nhà Trịnh suy tàn vào năm 1788. Đồng thời căn cứ vào kết cấu kiến trúc với những mảng chạm khắc có thể khẳng định ngôi đình ra đời vào cuối thời Hậu Lê.
Thờ vị thần Long Đỗ, hiệu là Quảng Lợi Bạch Mã đại vương, có công trạng to lớn trong lịch sử xây dựng và bảo vệ nền độc lập của đất nước, được nhân dân nhiều nơi tôn vinh thờ phụng.
Lễ hội: 15/3
26. Nghè Lê Xá ở x. Đa Tốn, h. Gia Lâm.
Cho đến nay chưa có tài liệu nào ghi chép cụ thể về niên đại khởi dựng của di tích. Căn cứ vào tài liệu Hán Nôm có niên đại sớm nhất còn trong di tích, đó là đạo sắc năm Cảnh Hưng thứ 28 (1767), qua đó có thể đoán định niên đại khởi dựng của di tích vào đầu TK 18 và được trùng tu vào các thời kỳ tiếp theo. Thời Nguyễn, nghè được trùng tu lớn, thời kỳ cải cách ruộng đất, nghè bị tàn phá, đến năm 1989 nhân dân địa phương mới khôi phục nghè với quy mô, diện mạo như ngày nay.
Thờ 3 anh em người họ Đào đã tham gia cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và có nhiều công lao hiển hách. Để tưởng nhớ công ơn của ba anh em họ Đào, nhân dân Đa Tốn đã lập miếu thờ: Đào Đô Thống thờ ở miếu Sén Tóc (thôn Ngọc Động); Đào Chiêu Hiển thờ ở Nghè Ông Hai (thôn Lê Xá) và Đào Tam Lang (thờ ở nghè cũ sau chuyển về nghè Lê Xá). 
Lễ hội: 10/02
27. Chùa Linh Quang ở đầu làng Công Đình, x. Đình Xuyên, h. Gia Lâm. 
Căn cứ vào tấm bia sớm nhất của chùa có niên hiệu Cảnh Hưng thứ 7 (1746) và tờ sắc phong cho thần Cây Gạo đại vương có niên hiệu Cảnh Hưng thứ nhất (1740) có thể đoán định chùa Linh Quang khởi dựng vào thời Lê Trung Hưng.
28. Đình, Chùa Linh Quy thuộc thôn Linh Quy Bắc, xã Kim Sơn huyện Gia Lâm
é Chùa Linh Quy  (Hoa Nghiêm tự): Được dựng từ thời Lê, trải qua một lần di chuyển địa điểm, trong kháng chiến chống Pháp, tam quan và gác chuông chùa bị đốt nên chùa Linh Quy đã qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo để có kiểu dáng như hiện tại.
é Đình Linh Quy xây dựng trước năm 1787.
Thờ thần hoàng làng là Nguyễn Biểu, vị quan thời Hậu Trần.
Năm 1412, Trùng Quang Đế nhà Hậu Trần bị tướng  giặc Minh là Trương Phụ đánh, bỏ chạy vào Nghệ An, các tướng không đồng tâm nên mỗi người chạy một ngả, Trùng Quang chạy vào Hóa Châu. Vua Trùng Quang sai Nguyễn Biểu ra mắt Trương Phụ xin cầu phong, Phụ không những không cho lại còn bắt Nguyễn Biểu. Biểu chửi vào mặt Phụ là kẻ dối trá, lật lọng là quân ăn cướp. Phụ tức cho giết Ông. 
29. Chùa Linh Ứng (Linh Ứng tự), còn gọi là chùa Thuận Tốn, thuộc th. Thuận Tốn, x. Đa Tốn, h. Gia Lâm. 
Trong chùa Linh Ứng có tấm bia dựng năm  Dương Đức thứ nhất (1672), ngoài ra còn có ba pho tượng hậu bằng đá. Như vậy có thể suy đoán chùa Linh Ứng đã có ít nhất vào giữa TK 17.
Nghệ thuật chạm khắc trong nhà tiền đường đậm nét phong cách nghệ thuật thời Nguyễn TK 19.
Chùa Linh Ứng còn lưu giữ và bảo quản 15 sắc phong của các triều đại Lê-Nguyễn. Thông qua 15 đạo sắc phong, có thể thấy rằng đình thờ hai vị thần mà theo nhân dân địa phương là hai anh em Bát Bộ Ma Vương (10 sắc) và Đại Ma Vương.
 Lễ hội: 09-11/02
30. Đền Mẫu Bát Tràng ở xóm 1, th. Bát Tràng, x. Bát Tràng, h. Gia Lâm.
Đền Mẫu Bắt Tràng là một ngôi đền thờ đạo Mẫu Việt Nam, ngôi đền này thờ Mẫu Bản Hương, một người con gái Bát Tràng, được tín đồ tin là con gái Ngọc Hoàng thượng đế đầu thai. Theo các cụ cao niên trong làng kể lại thì từ năm 1942, do ngôi đền thờ Mẫu bị sập đổ nên dân làng đã chuyển tượng và đồ thờ tự vào nhà thờ họ Trần, sáp nhập làm một. Do vậy, từ năm 1942 trở đi di tích đảm nhận hai chức năng: Là nơi thờ cúng tổ tiên của một chi nhánh họ Trần và là nơi thờ Mẫu theo tín ngưỡng dân gian truyền thống. Nhưng hai chức năng của di tích này có thể được nhập làm một bởi nhân vật Mẫu ở đây cũng là một người con gái đời thứ 9 của dòng họ Trần Đồng Tâm ở Bát Tràng.  Ngôi đền này mang đậm phong cách kiến trúc đời Nguyễn, được xây dựng vào cuối TK 16 đầu TK 17, được đại trùng tu vào đời Tự Đức và được tôn tạo vào thời Thành Thái. 
Đền thờ người con gái Bát Tràng họ Trần Đồng Tâm được dân gian suy tôn với nhiều mỹ hiệu như Mẫu Bản hương, Chầu Bà Đệ Tứ khâm sai v,v..
Lễ hội: 23-24/9 
31. Đình Ngọc Động ở th. Ngọc Động, x. Đa Tốn  h. Gia Lâm. Tương truyền đình Ngọc Động có từ rất xưa.
Thờ 3 vị tướng họ Đào đã có công giúp  Hai Bà Trưng đánh đuổi Thái thú Tô Định của nhà Đông Hán (25-220): 
  Đô Thống đại vương (gia phong Tế thế Hộ quốc Hùng tài Trợ thống đại vương)
  Chiêu Hiển đại vương (gia phong Tế thế Hộ quốc Anh linh Cảm ứng đại vương).
  Tam Lang đại vương (gia phong Tế thế Hộ quốc Thông minh Chính trực đại vương).
Lễ hội: 09-12/02
32. Đình Ninh Giang  thuộc xóm 8, x. Ninh Hiệp, h. Gia Lâm
Theo văn bia “Hậu thần bi ký” thì đình được xây vào năm Ất Tỵ (1605) và hoàn thành năm 1607. 
Đình được trùng tu sửa chữa lớn vào năm Minh Mạng thứ 5 (1824), nhà phương đình được xây dựng năm 1900. Từ đó đến nay, những lần sửa chữa lớn nhỏ đều không được ghi chép lại.
Thờ thần Nguyễn Nộn, ông người làng Phù Đổng, nổi dậy vào cuối thời Lý cùng Đoàn Thượng ở Hồng Châu và Trần Tự Khánh giành giật lợi thế khi nhà Lý bị diệt vong, nhưng Tự Khánh có Trần Thị Dung là Hoàng hậu của Lý Huệ Tông, nên đã thắng. Nguyễn Nộn thất thế, đành chấp nhận làm bầy tôi cho nhà Trần. Khi nhà Trần được kiến lập năm 1226, vua Trần phong cho Nguyễn Nộn tước Hoài Đạo Vương và còn gả công chúa Ngọan Thiềm cho làm thiếp. Đến năm 1229, Nguyễn Nộm ốm chết tại quê nhà. Nhân dân quanh vùng đã lập đền thờ để truy ân công lao của ông.
Lễ hội: 08-09/02
33. Đình, Đền Phú Thị ở th. Phú Thị (làng Sủi), x. Phú Thị, h. Gia Lâm.Tên làng Phú Thị có từ TK 16 cho đến nay.
é Đình Phú Thị có nguồn gốc từ một ngôi đền cổ thờ nhân vật lịch sử Đào Hoa Liên. Ông là một nhân vật quan trọng trong vương triều nhà Đinh, là người văn võ toàn tài, được thờ ở đình này. Theo nhiều tài liệu lịch sử ghi chép lại, Đào Liên Hoa người Hà Trung, Thanh Hóa, lớn lên theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước. Ông được phong Tây Vĩ đại vương,
é Đền Phú Thị (Đền Sủi) thờ bà Nguyên phi Ỷ Lan, xây dựng sau khi bà qua đời khoảng đầu TK 12. Trải qua bao năm tháng đình, đền Sủi đã được trùng tu sửa chữa lớn 5 lần trong 3 TK 17-19. Các mảng trang trí kiến trúc của các lầntrùng tu đó còn lại đến ngày nay.
é Chùa Phú Thị ở phía sau đình. Theo truyền thuyết, chùa được xây dựng từ rất sớm, vì năm 1066, nguyên phi Ỷ Lan đã về cầu tự tại chùa này. Khi mới xây chùa đã nổi tiếng là đẹp và đến sau khi nguyên phi Ỷ Lan về cầu tự lại cho tu sửa, tô điểm đẹp đẽ hơn.
Chùa được xây dựng cùng với đền và đình trên một khu đất cao rộng thành một cụm kiến trúc, thông với nhau bằng các cửa ngách nhỏ bên trong, chùa được xây sau đình, gồm 2 tòa nhà song song với hậu cung đình.
34. Chùa Phúc Nương còn gọi là chùa Yên Thường thuộc x. Yên Thường, h. Gia Lâm.
Chùa Phúc Nương là ngôi chùa cổ được xây dựng sớm ở nước ta. Thông qua những tấm bia mang niên hiệu Hoằng Định, Chính Hoà thời Lê Trung Hưng đã khẳng định sự nổi tiếng của ngôi chùa từ cuối TK 16 đầu TK 17. Cũng ở thời Lê, quan Tư Lễ giám Thái giám Dật Hải hầu Phạm Hữu Toán và Quận công Nguyễn Đình Huấn- đều là người Yên Thường đã 2 lần đóng góp tu bổ và mở rộng ngôi chùa.  Trước sau có khoảng 140 quan viên cúng tiền và ruộng đất vào chùa, nên một thời chùa Phúc Nương khá nổi tiếng. Đến đầu thời Nguyễn, chùa Phúc Nương được tu sửa lớn, năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) dân làng đã công đức tiền của để mua đồng thuê thợ đúc quả chuông đồng lớn “Phúc Nương tự chung”. 
35. Đình, Nghè  Sen Hồ ở x. Lệ Chi, h. Gia Lâm. Cụm di tích này được xây dựng trên một khu đất cao, tách biệt hoàn toàn với khu dân cư. Chùa và nghè nằm ở vị trí trung tâm. Đình ở chính phía sau ngôi chùa.
Theo truyền thuyết đình, nghè Sen Hồ thờ Hùng Hiển, một nhân vật anh hùng dưới đời Vua Hùng Vương thứ 6. Năm 24 tuổi được Vua Hùng giao cho chức Bồ Chính công, gần gũi nơi triều chính, khi giặc Ân sang xâm lược, Hùng Hiển công được phong chức Đại tướng quân, mang 5 ngàn quân chống giặc ở vùng Liên Đường, Gia Lâm. Ông chiêu mộ thêm dân binh trong trang Liêu Đường và Kim Đường. Liêu Đường sau đổi tên là Sen Hồ. Sau ông được giao quản lĩnh thuỷ binh phối hợp với đạo quân của ông Gióng chống giặc ở cửa biển Hải Ninh. Giặc tan, dân Sen Hồ lập sinh từ thờ ông để ghi nhớ công lao người anh hùng có công với dân với nước.
Nghè Sen Hồ có quy mô kiến trúc vô cùng lớn, hình chữ tam. Nghè cũng còn giữ được nhiều di vật quý được tạo tác ở TK 18-19
36. Chùa Thôn Cam (Sùng Nghiêm tự) ở th. Cam, x. Cổ Bi, h. Gia Lâm.
Không còn tư liệu thành văn cho biết chùa được xây dựng khi nào, nhưng căn cứ vào di vật và hệ thống tượng được tạo tác TK 18 thì có thể đoán định được niên đại xây dựng chùa khoảng thời gian ấy, đồng thời căn cứ vào diện mạo kiến trúc hiện nay là kết quả của những lần tu sửa lớn vào thời Nguyễn.
37. Đình, Chùa Thôn Hội: Đình chùa thôn Hội là tên gọi theo địa danh của thôn, chùa có tên chữ là “Sùng Kính tự”, nay thuộc xã Cổ Bi, huyện Gia Lâm 
Thờ Ả Lã Nàng Đê và Cao Biền.
*Về Ả Lã Nàng Đê, thần phả cho biết: Bấy giờ ở trang Phả Lại, huyện Quế Dương, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc có người họ Lã tên là Tiến, vợ tên là Triệu Thị Phụng. Ông bà là người  trung hậu hiếu thảo nghèo khó quanh năm làm nghề đánh cá kiếm ăn. Ngày ấy ông bà đánh cá ở thượng lưu sông Nguyệt Đức và nghỉ lại gần ngôi miếu thờ và đều mộng thấy có thần sai nữ thần xuống giúp dân. Sau đó bà mang thai, đến tháng 2 năm Quý Mùi sinh một người con gái thiên tư đĩnh dị, tướng mạo khôi kỳ bèn đặt tên là Ả Lã. Năm 16 tuổi Ả Lã rất sáng ý, học lực ngày càng tinh thông, lại thêm có chí dũng khí phách hơn người. Hơn nữa, cầm kỳ thi hoạ không có thứ gì không biết, quả là một trang thiếu nữ tài giỏi, lại có nhan sắc tuyệt vời như Hằng Nga trên cung quế.
Bấy giờ các trang tài tử văn nhân không ai vừa ý nàng do vậy mà duyên lành còn đợi giá. Khi ấy nào ngờ trong một đêm cả cha và mẹ nàng đều qua đời. Nàng làm lễ mai táng xong thì gặp lúc Hai Bà Trưng dấy quân phục thù dẹp giặc Tô Định.
Được tin này nàng Ả Lã liền tuyển mộ binh mã được ngàn người, riêng ở bản trang có hơn năm mươi người xin theo làm gia thần. Thế rồi quan quân làm lễ tế trời đất, lễ yết bách thần, sau đó đem quân xông ra trận, quân lính kéo đi cờ xí tung bay rợp đường, trống chiêng dậy đất vang động như sấm. Một hôm quân tiến đến vùng Hiệp Ký huyện Chu Diên đạo Sơn Tây để hợp quân và bàn kế tiến đánh quân địch. Trưng Vương biết Ả Lã là người có tài thao lược, giàu cơ mưu, bèn phong nàng làm mưu thần. Nàng Ả Lã xin với Trưng Vương cho mình làm phép tàng hình đi vào trại giặc để dò xét tình hình quân Tô Định ở các thành như thế nào, sẽ quay về cấp báo. Bà Trưng Trắc cùng với em gái là Trưng Nhị đem quân đánh thắng Tô Định chiếm được 65 thành trì. Hai bà lên làm Vua và ban chiếu mời các tướng lĩnh về triều mở tiệc linh đình tặng phong cho các tướng sĩ theo thứ bậc khác nhau. Trưng Vương ban cho Nàng Ả Lã thực ấp ở huyện Đông Ngàn.
Khi bà mất Trưng Vương lệnh ban chiếu cho phép trang Đường An phụng thờ bà. Sau này bà âm phù cho vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, nên được Tặng phong là Ả Lã Nàng Đê công chúa, gia tặng Tuệ Tĩnh phu nhân. Đến đời nhà Trần bà lại âm phù Trần Quốc Tuấn đánh dẹp được Ô Mã Nhi vua Trần Thái Tông  phong cho mỹ hiệu là Diệu Quang linh ứng. Đến khi vua Lê Thái Tổ khởi nghĩa phá tan giặc Minh là Liễu Thăng nhà vua lại phong cho thần là Nhan Uyển cương nghị anh linh, sắc chỉ cho trang Đường An xây miếu thờ phụng ngài. Các trang ấp quanh vùng cũng lập đền thờ vọng.
(có thuyết cho Ả Lã Nàng Đê là con Lữ Gia, xem đình Đại Mỗ q. Nam Từ Liêm).
*Vị thành hoàng thứ hai được tôn thờ ở đình là Cao Biền.
Theo sử Trung Quốc: “Năm 862, Sái Tập thay Vương Khoan làm An Nam kinh lược, quân Nam Chiếu vây Giao Chỉ, Tập cố thủ đợi viện binh. Đầu năm sau quân Nam Chiếu đánh gấp, thành bị hãm, gia nhân hơn 70 người đều bị giết, Tập bị chết đuối. Năm 864, vua Đường cho Trương Nhân kiêm coi giữ việc Giao Châu, Nhân sợ không dám tiến quân, vua bèn sai Cao Biền sang thay. Năm 865, Biền đem hơn 5000 quân vượt biển đi trước sang nước Nam, năm sau hội quân đánh tan quân Nam Chiếu, giết được tù trưởng, gần 2 vạn quân man đều quy phục. Nhân đó nhà Đường cho đặt quân Tĩnh Hải ở Giao Châu, cho Cao Biền làm Tiết độ sứ. Biền đắp thêm thành Đại La”. Đến năm 887 Biền chết, thọ 67 tuổi.
Lời bàn: Lúc này nước ta nằm dưới sự đô hộ của nhà Đường, Cao Biền vì vua Đường mà sang ta đánh và thu phục được quân Nam Chiếu, thiết lập lại ách đô hộ của nhà Đường đối với nước ta, chứ đâu phải Cao Biên vì dân vì nước ta mà đánh giặc giữ nước cho ta, vậy thì vì cớ gì mà truy ân thờ phụng. Nên nhớ rằng Cao Biền là một nhà phong thủy nổi tiếng đương thời được vua  Đường Ý Tông sai ở lại  nước ta làm tiết độ sứ và tìm cách trấn yểm để dân Nam không thể nổi lên chống lại nhà Đường.
Bằng chứng là tại số 3/Hoàn Kiếm có nói đến thần Long Đỗ như sau: ” Đây là vị thần đã làm thất bại các pháp thuật của viên quan đô hộ thời Bắc thuộc Cao Biền, Cao biền thần phục đã phải phong thần làm Quốc đô định bang thành hoàng đại vương”.
Vậy thì vì lẽ gì mà đình thôn Hội xã Cổ Bi huyện Gia Lâm lại thờ phụng. Đình – Chùa Thôn Hội lại được UBND thành phố Hà Nội ra quyết định xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hóa năm 2009. Thật đáng xấu hổ!

Thiết nghĩ các cơ quan chức năng nhà nước trung ương và địa phương cần cho xóa bỏ việc thờ phụng này.
38. Đình Thôn Vàng thuộc x. Cổ Bi, h. Gia Lâm: Chưa có tư liệu thành văn cho biết đình được khởi dựng khi nào.
Tương truyền, khi Hai Bà Trưng đứng lên dấy binh chống lại sự đô hộ của nhà Hán, Hai Bà đã lập đàn tế trời ở cửa sông Hát, chiêu mộ nghĩa quân chống lại quân xân lược. Khi đoàn quân của Hai Bà tiến đến trang Cổ Bi, thấy đất đai đẹp đẽ, tiến thoái đều thuận lợi bèn cho quân nghỉ lại. Đêm 10/3 vào cuối canh tư trong giấc ngủ mơ màng, bà thấy có một ông già, mũ áo chỉnh tề, hình dung kì dị xưng là linh thần và nói: “Ta vốn dòng dõi Hùng Vương chịu mệnh thiên đình trấn giữ đất này, nay gặp đại quân đi làm việc nghĩa, ta xin trợ giúp. Nếu sau này hiển vinh xin cùng phối hưởng”. Bà biết đó là thổ thần báo mộng liền làm lễ tạ rồi cất quân bủa vây trụ sở của quân Hán, chỉ đánh một trận là thắng, buộc Tô Định phải thua chạy. Dẹp xong giặc Hai Bà đã gia phong cho thần mỹ tự: “Trung quốc hùng trấn uy linh ngưng hưu chi thần”. Vị thần đã có công phù trợ cho nghĩa quân Hai Bà Trưng vốn là một vị tướng thời Hùng Vương, được suy tôn là: “Đô Hồ Dương Võ Phù Tộ Đại Vương”. Đến các đời sau thần thường hiển linh giúp nước chống giặc. Ghi nhận công lao của thần, các triều đại đều ban sắc phong đặt mỹ tự. 
Lễ hội: 14/8
39. Đình, Miếu Thuận Tốn ở th. Thuận Tốn, x. Đa Tốn, h. Gia Lâm
é Đình Thuận Tốn có lẽ cũng có cùng niên đại với ngôi đình làng chăng?
Hiện nay, đình chính bị xuống cấp nghiêm trọng, UBND Thành phố Hà Nội đang có kế hoạch trùng tu trong thời gian tới.
é Miếu Thuận Tốn còn có tên miếu Cầu Vương.
Chưa có tư liệu thành văn nào cho biết niên đại xây dựng ngôi miếu, nhưng căn cứ vào hệ thống 15 đạo sắc có niên đại sớm nhất là Cảnh Hưng 28 (1767) để đoán định thì miếu có niên đại xây dựng từ lâu cách nay chừng 300 năm. 
Đình và miếu Thuận Tốn đều thờ hai vị thần mà theo nhân dân địa phương là hai anh em Bát Bộ Ma Vương và Đại Ma Vương.
Lễ hội:  9 – 11 tháng 2
40. Đình Tô Khê ở th. Tô Khê, x. Phú Thị, h. Gia Lâm. Chưa tìm thấy văn bản chính thức xác nhận năm khởi dựng ngôi đình. Nay căn cứ vào 18 đạo sắc phong hiện được lưu giữ tại đình, trong đó sắc phong sớm nhất có niên hiệu Chính Hòa tứ niên (1683) đời vua Lê Hy Tông (1676-1705) phong cho hai ông là “Bảo hựu hộ dân thông minh dũng lược đại vương”. Từ đó suy ra ngôi đình Tô Khê muộn nhất cũng ra đời vào giữa TK 17.
Đình thờ hai vị thành hoàng làng là Trần Văn Xương và Trần Văn Khúc, hai vị tướng tài của Phù Đổng Thiên Vương, người anh hùng dân tộc với chiến công bất hủ chiến thắng giặc Ân xâm lược. Truyền thuyết kể rằng: ” Vào thời kỳ Văn Lang đến đời vua Hùng vương thứ 6, bọn giặc Ân từ phương Bắc tràn sang xâm lược nước ta. Vua Hùng xuống chiếu chiêu mộ người hiền tài ra giúp nước đánh đuổi giặc ngoại xâm. Vua cho sứ đi rao, khắp 15 bộ đều hưởng ứng. Hồi đó, hai anh em Trần Văn Xương và Trần Văn Khúc sinh quán tại huyện Thanh Xuân (nay là Thọ Xuân, Thanh Hoá) vốn làm nghề nuôi cá ra hưởng ứng xin đứng đầu quân. Hai ông được lĩnh chức tướng tiền phong cùng với Phù Đổng Thiên Vương đi dẹp giặc. Hai ông cùng quân sỹ trong đó có tráng đinh làng Tô Khê chém đầu giặc là Thạch Linh thần tướng tại vùng Vũ Linh (Tiên Du –Bắc Ninh) ngày nay. Dẹp xong giặc ông Gióng trở về trời còn hai ông Trần Văn Xương và Trần Văn Khúc lui về đất Tô Khê đóng quân.
Lễ hội: 10/3
41. Đền Trúc Lâm (Đền Cây Gạo)
Đền Trúc Lâm còn có tên là Trúc Lâm đài thuộc th. Công Đình, x. Đình Xuyên, h. Gia Lâm.
Đền có lịch sử xây dựng khá sớm, tư liệu chính xác nhất là tấm bia niên hiệu Cảnh Hưng 7 (1746) và sắc phong ở đền niên hiệu cảnh Hưng 1 (1740)- một di tích có liên quan mật thiết với chùa Linh Quang.
Theo thần tích của thành hoàng làng Tả Phù, có một lần đức Tả Phù ngủ lại bên đền mà khấn rằng: “Lần này đi đánh giặc phò vua giúp nước xin thần phù hộ… Nếu được như lời sẽ trả ơn”. Sau khi thắng trận ông được nhà vua thưởng rất hậu, song ông không nhận mà chỉ xin vua ban cho ba ngôi nhà của giặc để cho dân dựng Đình.
Được vua đồng ý ông cho dân chở ba ngôi nhà theo dòng sông Thiên Đức về làng. Nhưng khi đến đền Trúc Lâm, hai ngôi nhà trước qua được, còn ngôi nhà thứ ba không nhúc nhích. Ông vào đền khấn thần Cây Gạo, xin trả ơn thần là đem ngôi nhà này dựng đình cho làng Công Đình. Khấn xong lập tức ngôi nhà ấy kéo lên được và dựng lên ngôi đình hiện nay.
Vị thần được thờ tại đền Trúc Lâm là thần Cây Gạo đại vương, một thần linh của đất nước đã được nhân cách hoá.
42. Chùa Trung Quan (Đại Hùng tự) thuộc th. Trung Quan, x. Văn Đức, h. Gia Lâm. 
Tên Trung Quan là gọi theo địa danh của làng. Căn cứ vào các hiện vật còn lưu lại ở chùa cho thấy chùa Trung Quan được xây dựng từ khá lâu. Đến TK 18 có lẽ chùa đã có một cơ ngơi khang trang to lớn, về sau chùa được tu sửa nhiều lần. Trải qua những bước thăng trầm và biến động của lịch sử, đặc biệt là trải qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, di tích đã không còn giữ nguyên được khối kiến trúc ban đầu.
43. Chùa Vạn Xuân là một di tích trong cụm di tích Đình – Nghè – Chùa th. Sen Hồ, x. Lệ Chi, h. Gia Lâm.
Theo cuốn thần phả “Đại vương ngọc phả” còn lưu giữ tại đình cho biết chùa Vạn Xuân đã tồn tại từ thời Hùng vương thứ 6 cùng với các vị thần hoàng làng. Cuốn thần phả được biên soạn vào năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) thế thì  ngôi chùa đã tồn tại vào trước năm 1572. Chùa Vạn Xuân hiện nay tọa lạc ngay sát bên phải của kiến trúc Nghè. Chùa có quy mô kiến trúc nhỏ hơn đình. Chưa tìm thấy tư liệu cho biết, đình và nghè Vạn Xuân thờ những nhân vật nào.
44. Đình, Chùa, Đền Yên Bình thuộc th. Yên Bình, x. Dương Xá, h. Gia Lâm. 
éĐình Yên Bình: Hiện nay, không có nguồn tư liệu thành văn nào ghi lại niên đại xây dựng di tích. Di vật có niên đại sớm nhất hiện còn lưu giữ tại đình là đạo sắc phong cho thần có niên đại Quang Trung năm thứ 5 (1792) và một hương án mang phong cách nghệ thuật TK 18. Từ cơ sở tư liệu trên, có thể đoán định chắc chắn rằng đình Yên Bình có niên đại khởi dựng muộn nhất vào thời Lê Trung Hưng (TK 17-18).
Thờ vị thành hoàng làng là thần Lý Khuê, tự là Lý Giang, một trong 12 sứ quân thời loạn Thập nhị sứ quân cát cứ ở Siêu Loại (Dương Xá – Gia Lâm). 
é Đền Yên Bình: Bên cạnh đình, cách một cái ao rộng là đền thờ Đức Thánh Bà Phu Nhân của Lý Lãng Công – thành hoàng làng Yên Bình. Nhân dân trong thôn vẫn gọi là đền thờ Mẫu. Bà là vợ của Lý Khuê (Lý Lãng công) được thờ ở đình Yên Bình.
Lai lịch của Đức Thánh Bà cũng không có tài liệu nào nhắc đến, chỉ biết bà là người ở thôn Yên Bình, nổi tiếng tài sắc hiền thục. Dân làng Yên Bình lập đền thờ Bà, nhưng cũng chính là thờ Mẫu  
Lễ hội: 09-11/02 
45. Cụm Di tích Đình-Đền Bà Tấm
Cụm di tích đền-chùa Bà Tấm thuộc địa phận x. Dương Xá, h. Gia Lâm.
Theo sử sách và truyền thuyết dân gian thì cụm di tích này được xây dựng từ thời Lý. Sự ra đời của di tích gắn liền với Nguyên phi, Hoàng Thái hậu Ỷ Lan-dân gian gọi thân mật là Bà Tấm.
Bà đã cho xây dựng hơn 100 chùa, tháp nổi tiếng tồn tại đến tận ngày nay như: Chùa Dạm 1086 (Quế Võ, Bắc Ninh), chùa Một Mái ở Hoàng Xá 1099 (Quốc Oai, Hà Nội), chùa Phật Tích 1100 (Tiên Du, Bắc Ninh), chùa Báo Ân 1100 (Đông Sơn, Thanh Hóa), tháp Chương Sơn 1108 (Ý Yên, Nam Định). Và ở quê hương của bà, hương Thổ Lỗi (Siêu Loại), bà đã cho xây dựng ngôi chùa Linh Nhân tư phúc tự.
Vào năm 1177, khi Ỷ Lan qua đời, ngôi đền thờ bà cũng được xây dựng. Từ đó đến nay, đền-chùa Bà Tấm là nơi hành lễ thờ Phật và cũng là nơi tưởng niệm Bà của nhân dân trong vùng và khách thập phương.
Trong quá trình tồn tại, đền- chùa Bà Tấm luôn được sửa chữa, trùng tu và xây bổ sung các hạng mục công trình mới. Văn bia cho biết vào TK 16-18 các vương phi, quận chúa họ Trịnh nhiều lần công đức tiền của cùng nhân dân Dương Xá tu bổ lại chùa.

 

Đn Bà Tm th Nguyên phi  Lan  Gia Lâm – Hà Ni

46. Đình, Chùa Yên Mỹ ở th. Yên Mỹ, x. Dương Quang, h. Gia Lâm. Chùa có tên chữ là Phúc Nhân Tự Yên. Chùa vừa thờ Phật vừa thờ Pháp Điện.
Căn cứ vào niên đại ghi trên chuông đúc năm Thiệu Trị nguyên niên (1841) và qua hệ thống tượng thờ có thể đoán định chùa được xây dựng vào khoảng TK 18-19
Đình Yên Mỹ thờ thành hoàng làng là Quảng Độ đại vương, người có nhiều ân đức với nhân dân địa phương. Sự tích và lai lịch của thần được tóm lược như sau: Ngài sinh ngày 13 tháng 3 năm Nhâm Dần, hóa ngày 12 tháng 10 là người có công dạy dân  văn tự, lễ nghĩa, nên thời nhà Hán phong cho ngài là Liệt Hầu công. Sau đó ngài đến trại Thuần Khang (tức Yên Mỹ ngày nay) thấy nơi đây đất đẹp, sơn thủy hữu tình nên ngài ở lại đây mở trường dạy học được một năm, sau có giặc làm loạn, vua phong cho ngài làm bản châu thái thú để đi bình giặc. Lúc đó ngài chọn 35 trai tráng tại trại Thuần Khang làm gia thần thủ túc, viết hịch đưa đến các quận phủ. Chỉ trong một ngày, khiến quân phản loạn phải lui. Khải hoàn trở về, ngài mổ lợn bò khao quân lính và tế thiên dịa, bái yết thành hoàng bản trại, dạy dân lấy đức vọng, dân thấy vậy bèn xin ngài lấy chỗ ngài dạy học xây đình thờ. Đêm ấy ngài nằm mộng thấy người con gái báo mộng đi từ đằng bắc bản trại xưng là thần nữ Hoàng Nga thờ ở miếu, báo cho ngài biết là quân nhà Hán sắp đến bản trại của thần rồi biến mất. Tỉnh dậy đi đến nơi thấy quân Hán đang vây bản trại thật. Ngài vào trong gọi quân lính đến và nói rằng: “Lòng người đều giúp ta, quân tướng hãy cố sức đánh quân nhà Hán” chỉ một trận đã thắng được quân giặc, sau đó ngài cưởi ngựa về châu-phủ bảo gia thần trại Thuần Mỹ rằng: “ở làng có thần nữ rất thiêng, về sau có trọng mệnh gì thì phải phụng nghênh thần nữ về cùng phối hưởng”. Mấy ngày sau thì ngài hóa, nhân dân sợ hãi bèn làm biểu dâng vua, vua ban sắc cho thần làm làm phúc thần cho dân phủ lập miếu thờ”.
HUYỆN THANH TRÌ  
1. Đình Ba Dân còn được gọi là đình Ba Xã, đình Ba Chạ, hay đình Tứ Hiệp, bởi đây là đình chung của ba làng: Cổ Điển, Cương Ngô và Đồng Trì thuộc x. Tứ Hiệp, h.Thanh Trì. 
Tương truyền nơi đây đã từng diễn ra cuộc chiến giữa các tướng của Đinh Bộ Lĩnh là Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục, Đinh Thiết, Cao Sơn với sứ quân Nguyễn Siêu đóng ở Tây Phù Liệt (nay là xã Đông Mĩ, Thanh Trì). Trong trận chiến ác liệt năm 967 đó thì cả bốn tướng đều hy sinh.
Đình được dựng từ lâu, sau đó được tu bổ 3 lần dưới triều Nguyễn.
Đình thờ hai anh em là tướng quân Nguyễn Bồ và Nguyễn Phục đồng thời phối thờ Nguyễn Bặc và công chúa Quế Hương – chị Vua Đinh Tiên Hoàng
Lễ hội: 14-16/02
2. Chùa Bảo Tháp (Thượng Phúc tự) còn gọi là chùa Bồ Đề hay chùa Bồ Tát, ở th. Thượng Phúc, x. Tả Thanh Oai, h. Thanh Trì.
Tương truyền ban đầu là một cái am nhỏ được xây dựng vào cuối thời Lý cho hoàng thân Lý Thẩm (con Lý Cao Tông, em vua Lý Huệ Tông, chú Lý Chiêu Hoàng) về tu hành. Thời nhà Trần, năm 1328 có vị cao tăng Hồ Bà Lam là hoàng thân nhà Hồ về tu tại chùa. Ngoài việc tụng kinh niệm Phật, sư còn đi thu nhận cô nhi quả phụ về nuôi dưỡng. Nhân dân đương thời ca tụng ngài là Bồ Tát sống. Người thứ 3 đến tu ở chùa là bà Minh Từ Hoàng Thái hậu Hồ Thuận Nương, cô ruột Hồ Quý Ly. Bà là người Diễn Châu, Nghệ An, lấy vua Trần Minh Tông sinh ra hai con đều làm vua là Trần Hiến Tông (1329-1341) và Trần Nghệ Tông (1370-1372).
Bà về đây để tránh nạn quân Chế Bồng Nga tiến đánh và tàn phá Thăng Long. Hòa thượng Bồ tát đã giao chùa cho bà rồi lập một đàn thiêu trèo lên đó tụng kinh và sai đệ tử châm lửa, ngài vẫn điềm nhiên đọc kinh Đại Tạng cho đến khi toàn thân hóa thành than. Hôm đó là ngày 14 tháng 4 và ngày này trở thành ngày giỗ Tổ chùa từ đó. 
Khảo cứu Chi tiết bà Hồ Thuận Nương lánh nạn Chiêm Thành mà về tu ở chùa Bảo Tháp tức chùa Thượng Phúc là không đúng. Dưới triều nhà Trần, năm 1370 Dương Nhật Lễ bị giết, mẹ Nhật Lễ chạy vào Chiêm Thành xúi giục chúa Chiêm là Chế Bồng Nga mang quân ra cướp nước ta để trả thù cho Nhật Lễ vào năm sau 1371
Năm 1428, sau khi đánh thắng quân Minh xâm lược, Lê Thái Tổ có sắc chỉ giao cho ấp Thượng Phúc lập đền thờ Minh Từ và phong bà làm Thượng đẳng phúc thần hưng quốc.
Đền thờ bà Hồ Thuận Nương có tên Minh Từ, như vậy bà Hồ Thuận Nương chính là thần phi Minh Từ. Thế thì có thể bà đi tu sau khi con đẻ của bà là Hiến Tông mất năm 1341 khi chưa có con và bà mất sau đó 24 năm, tức năm 1365, thế thì bà không thể chạy trốn quân Chiêm vào năm 1371 được!
3. Đền Chu Văn An ở th. Văn, x. Thanh Liệt, h. Thanh Trì.
Tương truyền sau khi Chu Văn An mất, nhân dân làng Thanh Liệt cũng  dựng đền thờ và xin phong ông làm thần hoàng phù hộ quê nhà. Sang đến đời Lê Trung Hưng, ngôi đền này trở thành Văn chỉ, nơi thờ chung các vị khoa bảng của làng Thanh Liệt. Theo văn bia: “Tiền hiền bi ký” dựng năm Ất Dậu niên hiệu Cảnh Hưng (1765) thì ban đầu đền thờ Chu Văn An và con là Chu Tam Tỉnh (ngự thí năm Đinh Hợi), cháu là Chu Đình Bảo (Ts Giáp Thìn 1484), rồi Lý Trần Thản (Ts Ất Sửu)…
Đền Chu Văn An cũ vì chật hẹp nên đã được di chuyển đến vị trí hiện nay bên dòng Tô Lịch để xây lại vào năm Giáp Tý (1864), Tự Đức trên một khoảnh đất rộng rãi hơn.
4. Đình, Chùa Đại Áng cùng ở th. Đại Áng, x. Đại Áng, h. Thanh Trì.
é Đình Đại Áng (tên chữ Đại Đản) ban đầu được xây dựng ở khu vực Đồng Dền, sau chuyển về xóm Tương Bảo (hiện vẫn còn nền đình). Đến năm Long Đức thứ 3 (1734), bà Nguyễn Thị Huy hiệu Diệu Lộc là người làng đã công đức tiền bạc để xây đình, đồng thời vận động bà con chung tay để chuyển đình vào trong làng, tại vị trí hiện nay. Năm 2001 đình được dân làng góp tiền góp công trùng tu khá khang trang. Nơi đây Đô đốc Bảo nhà Tây Sơn cho trú quân trước khi vào giải phóng Thăng Long. 
Thờ Tản Viên Tam thánh (Cao Sơn, Quý Minh, Tản Viên) và Bố Cái Đại Vương. 
é Chùa Đại Áng (Thiên Phúc tự) hay chùa Đám. Theo truyền ngôn thì chùa do Nguyên phi Ỷ Lan hưng công tạo dựng. Đến khoảng niên hiệu Long Đức (1732-1734) và Vĩnh Hựu (1735-1740) chùa được mở rộng như quy mô ngày nay.
Lễ hội: 24/10
5. Đình, Chùa Đại Lan, thuộc th. Đại Lan, x. Duyên Hà, h. Thanh Trì. Đình cùng với chùa được xây dựng vào khoảng TK 17, trước ở sát bờ sông, sau do bờ sông bị lở nên đình được chuyển vào vị trí hiện nay.
Thờ 3 vị đại vương: Linh Hồ, Minh Chiêu và Cung (Chà?) Mục là các danh tướng thời Vua Hùng thứ 17. Theo bản thần tích, thân phụ của ba vị thần họ Trương, húy Long, ngụ tại hương Lưu Xá, huyện Thượng Hiền, phủ Nghĩa Hưng. Ông bà làm nghề đánh cá, vì muộn con, đi cầu tự ở chùa Sài Sơn, khi về bà mang thai sinh con trai là Linh Hồ. Linh Hồ là con bà cả, còn Minh Chiêu và Chà Mục là con bà thứ. Lớn lên, ba vị đều thông minh, khỏe mạnh hơn người. Bấy giờ có người Tây Thục đem quân xâm chiếm Phong Châu, vua Hùng ban chiếu tìm tướng tài giỏi, ba vị ra ứng tuyển và đều được vua trọng dụng. Linh Hồ được phong là Tiền bộ trưởng tá quan, Minh Chiêu là Tả bộ trưởng tá quan, Chà Mục là Hữu bộ trưởng tá quan. Khi Linh Hồ dẫn quân tiến đến sông Lô thì bị quân Thục vây chặt. Quân thiếu lương ăn, bị ốm đã năm ngày, trước tình thế nguy cấp, Linh Hồ bèn ngửa mặt lên trời, kêu rằng: “Nếu như nước Nam còn thì trời đất thần linh nước Nam hãy giúp cho quân thắng trận; nếu như nước Nam phải nhập với Bắc quốc thì quyết sống mái một trận”. Chỉ trong khoảnh khắc, bỗng thấy mẹ con con bò từ trên núi lao thẳng xuống. Tiền bộ tá quan vắt sữa để quân uống. Tự nhiên, binh lính phấn chấn hẳn lên. Trong nháy mắt, mẹ con bò thần biến mất. Sau đó, có quân tiếp viện tới, hai bên giao tranh dữ dội, quân Thục tan vỡ. Thừa thắng, quân ta tiến đến cửa trại giặc, quân Thục bị dẹp hết. Nước Văn Lang lại ca khúc khải hoàn.
Đến thời Lê thờ thêm Nguyễn Như Đổ làm á thánh (ông tên chữ Mạnh An, hiệu Khiêm Trai, sinh năm 1424 đỗ Bảng nhãn năm 19 tuổi, 3 lần đi sứ, chức Thượng thư, Thái bảo Lan Quận công, thọ 102 tuổi)
Lễ hội: 06-08/01
6. Đình Đông Phù ở th. 2, xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì.  
Xưa kia trong thời loạn 12 sứ quân, nơi đây là đại bản doanh của sứ quân Nguyễn Siêu.
Trong trận tử chiến trên sông Hồng, ông đã hi sinh. Xác ông trôi dạt về Bái Xuyên, Văn Giang được nhân dân vớt lên và mai táng chu đáo.
Để tưởng nhớ công lao tài đức của Nguyễn Siêu, nhân dân Đông Phù đã suy tôn ông là Thành hoàng làng với danh hiệu cao quý “Thượng đẳng thần đại vương”, lập đình thờ phụng và hàng năm tổ chức lễ hội vào ngày 09/01 là ngày sinh và ngày 07/02 là ngày ‘nhập tịch’ tức là ngày Nguyễn Siêu chọn đất Đông Phù làm đại bản doanh.
Thờ Nguyễn Siêu mất trong loạn 12 sứ quân.
Lễ hội: 09/01 và 07/02
7. Đình Hòa Xá và Minh Ngự Lâu.
Đình Hòa Xá và Minh Ngự Lâu đều ở th. Tả Thanh Oai, x. Tả Thanh Oai, h. Thanh Trì.
Minh Ngự Lâu vốn là ngôi miếu cách đình Hòa Xá khoảng 500m. Cả hai đều thờ bà Chúa Hến và vua Lê Hoàn TK 10.
Đình và Minh Ngự Lâu (Lầu Ngự sáng), thờ Bà Chúa Tó (Bà Chúa Hến) là Qúy phi của Lê Đại Hành. Lúc nhỏ nhà nghèo, từ sáng tinh mơ cô gái đã phải mò hến bắt cua ven sông Nhuệ, sau này vì thế có tên bà Chúa Hến. Một hôm vua Lê Hoàn tình cờ dừng binh để lấy lương thảo ở làng Tó. Tuy còn rất trẻ nhưng cô gái dám đứng ra vận động nhân dân vùng Hữu Thanh Oai đóng thuyền và vùng Tả Thanh Oai góp gạo cho đoàn quân chuẩn bị đánh giặc Tống. Riêng cô gái lại nghĩ ra một loại bánh dùng để làm lương khô cho quân lính, đó chính là món chè lam đặc sản trong các ngày hội làng… Vua thắng trận trở về, cô được phong làm thứ phi và sau trở thành một trong năm hoàng hậu. Khi Thánh phi mất, dân làng Tó cúng giỗ hàng năm và nơi ở cũ của Bà dựng lầu Minh Ngự Lâu, nhà cung phi sửa thành miếu điện.
Lễ hội: 15/01
8. Đình, Đền Hoành Sơn ở th. Vĩnh Thịnh, x. Đại Áng, h. Thanh Trì.
é Đền Hoành Sơn hiện còn lưu giữ nhiều đồ thờ bằng gỗ, sứ, v.v… và các mảng chạm mang phong cách cuối Lê đầu Nguyễn.
Đền Hoành Sơn, một công trình kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng của làng Vinh Thịnh, là nơi thờ Liễu Hạnh công chúa đã âm phù cho Phạm Xa (hiện nay thờ trong đình) giúp Lê Lợi đánh thắng giặc Minh và chặt đầu Liễu Thăng ở Lạng Sơn.
é Đình Hoành Sơn được xây dựng vào năm Bảo Thái thứ 6 (1725) thời Lê Trung Hưng và được tu sửa vào đời Bảo Đại (1932). Đình vốn là ngôi đền Vĩnh Bảo thờ Phạm Xa có công chém đầu Liễu Thăng ở ải Chi Lăng ngày 10/10/1427. 
Lễ hội: 13/02 và 10/01
9. Đình, Chùa Huỳnh Cung và Văn chỉ Chu Văn An ở x. Tam Hiệp, h. Thanh Trì.
éĐình Huỳnh Cung và văn chỉ Chu Văn An, không rõ được xây dựng vào năm nào nhưng theo tấm bia có niên đại 1717 và 1757 thì đình phải được làm từ trước đó. 
Đình Huỳnh Cung thờ Uy Mang và Hồng Bắc đại vương  còn phối thờ Chu Văn An vì ông là người có công với làng Huỳnh Cung xưa và là người danh tiếng trong lịch sử đời Trần.
Theo sử sách ghi lại thì Uy Mang và Hồng Bắc là con Vua Hùng thứ 17 Hùng Nghi Vương. 
éVăn chỉ Chu Văn An hiện nay chỉ còn một trụ xây của tam quan cũ. Trong nền của văn chỉ còn lại một tấm bia bị gẫy trên rùa đá, còn ngôi đền xây dựng khi xưa bị thực dân Pháp phá huỷ. Gần đây những người dân trong vùng đã xây dựng lại trên nền cũ.
é Chùa Huỳnh Cung được xây dựng từ TK 17 và đã được trùng tu nhiều lần. Khuôn viên chùa rộng lớn tới 10.000m2. Tất cả 49 pho tượng trong chùa đều được sơn son thếp vàng, mang phong cách tạo tượng của các TK 18-19. Đặc biệt, chùa còn có 1 cuốn Thần phả về 2 vị Thành hoàng là hai anh em sinh đôi có cùng ngày hóa vào thời Hùng Vương 17.
Lễ hội: 18/21/01
10. Đền Huỳnh Cung và Đình Nội ở th. Văn, x. Thanh Liệt, h. Thanh Trì
é Đền Huỳnh Cung do học trò của Chu Văn An và nhân dân xã Thanh Liệt dựng năm 1846 để thờ thầy trên nền nhà dạy học cũ, sau được Tham tụng Bùi huy Bích người làng Sét tu bổ. Giữa TK 19 Nguyễn Văn Siêu có tham gia tu sửa đền. Tại đền ngoài bài vị thờ Chu Văn An, còn có 61 bài vị thờ các vị đại khoa Thanh Trì như Nguyễn Như Đổ, Bùi Xương Trạch, Nguyễn Công Thể, Bùi huy Bích ..Thờ Chu Văn An.
é Đình Nội: Hiện không rõ niên đại khởi dựng ngôi đình này, có thể ban đầu là ngôi đền thờ Chu Văn An, được dựng từ rất sớm, thậm chí là ngay sau Chu Văn  An qua đời. Do biến động qua các đời cùng sự điều chỉnh chức năng, công năng sử dụng, tên gọi di tích không nhất quán, lúc là đền, lúc là đình, lúc là văn chỉ thờ các bậc tiên hiền. Sang TK 19, thời vua Tự Đức năm Giáp Tý (1864), do đền nằm trong khu đất chật hẹp nên vị tú tài người làng là Vũ Huy Diệu đã cùng nhân dân chọn nơi đât thoáng rộng (khu vực đình hiện nay) để xây dựng lại với một tòa ở chính giữa, ba gian lợp ngói, tả vũ hai dãy giải vũ bao bọc. Đến mùa đông năm Nhâm Thìn, niên hiệu Thành Thái năm thứ 4 (1892), ngôi đình được xây dựng lại qui mô như hiện nay với Thủy đình, Đại bái, Trung cung, Hậu cung, Tả – Hữu vu.
11. Đình Hữu Thanh Oai  ở x. Hữu Hòa, h. Thanh Trì. Chưa rõ đình được xây dựng khi nào. 
Nguyên nhân ra đời ngôi đình như sau: Khi vua Lê Đại Hành từ Hoa Lư ra dẹp giặc phương Bắc đã qua đây và cho quân sĩ dừng chân nghỉ tại một gò đất hình con rùa. Dân biết tin, kéo ra chúc tụng, dâng cỗ chay cho vua và xin hộ kiệu, cắm hướng đình để sau này được thờ phụng.
Sau khi vua qua đời, để ghi nhớ lần vua qua đây, người dân trong vùng đã chung tay lập miếu thờ ngài như thành hoàng làng ngay tại Gò Con Rùa. Trong các ngày lễ hội, lễ vật truyền thống bắt buộc phải có cơm nắm, muối vừng. Vì đây là món ăn của quân lính nhà vua hồi ấy.
Thờ vua Lê Đại Hành 
12.Chùa Hưng Long ở th. Đông Phù, x. Đông Mỹ, h. Thanh Trì  (Trước đây còn có tên gọi là chùa Long Hưng, chùa Hưng Hóa, chùa Nhót, chùa Phù Liệt, chùa Đông Phù).
Chùa được khởi dựng năm Thuận Thiên thứ 2 (1011) do vua Lý Thái Tổ ban chiếu và cấp tiền xây dựng. Đời vua Lý Thánh Tông (1054-1072), Hoàng hậu Thượng Dương đã hạ sinh được nhị vị công chúa là Lý Từ Thục và Lý Từ Huy. Đến tuổi trưởng thành, nhị vị công chúa đã về chùa Hưng Long xuất gia đầu Phật và viên tịch tại Lăng Liên Hoa vào ngày 15 tháng 3 năm Ất Hợi, niên hiệu Kiến Gia 5 (1215) đời vua Lý Huệ Tông với đạo hiệu Đại Thánh Bồ Tát Lý Từ Thục và Đại Thánh Bồ Tát Lý Từ Huy, nhân dân địa phương thường gọi là Nhị vị Bồ Tát.
Trải qua hàng nghìn năm tồn tại, chùa Hưng Long đã được các thế hệ Tăng ni trụ trì và nhân dân tín đồ Phật tử thập phương phát tâm công đức tôn tạo nhiều lần. Đặc biệt năm 1619, Quận chúa Thái phi Trịnh Thị Ngọc Thưởng đã phát tâm công đức toàn bộ kinh phí cho việc đại trùng tu. Năm 2004, UBND Thành phố Hà Nội cấp ngân sách hơn 2 tỷ đồng để trùng tu tòa Tam bảo, gồm 7 gian tiền đường, hậu cung, 11 gian giải vũ bên trái thờ Đức Thánh Hiền và 3 gian nhà trước điện thờ Nhị vị Bồ Tát.
Khảo cứu
Hai nàng công chúa Lý Từ Thục và Lý Từ Huy là con Lý Huệ Tông chứ không phải con của Lý Thánh Tông với Hoàng hậu Thượng Dương. Vì Lý Thánh Tông sinh 1023 còn 2 công chúa chết năm 1215 cách nhau gần 200 năm sao?

Lễ hôi: 14-16/3 
13. Đình, Chùa Ích Vịnh đều ở th.  Ích Vịnh, x. Vĩnh Quỳnh, h. Thanh Trì. Thôn Ích Vịnh tên nôm là Giả Viềng. Tương truyền vào thời Mạc có một ông đồ người Kẻ Lủ (nay là Đại Kim) đến Giả Viềng dạy học rồi lấy vợ là con gái làng thuộc họ Nguyễn Hữu. Bà đồ chỉ sinh được một người con gái, lớn lên trở thành cung phi của vua Lê Chiêu Tông. Người cháu ngoại của ông đồ được Nguyễn Kim đưa lên ngôi, tức là Lê Trang Tông (1533-1548).
é Chùa Ích Vịnh (Phúc Long tự) còn gọi là chùa Đống. Tương truyền chùa có từ thời Tây Sơn, dáng dấp ngày nay chủ yếu mang đặc trưng của nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn.
Chùa có đầy đủ các pho tượng Phật, bài trí theo giáo phái Bắc tông. 
é Đình Ích Vịnh (Thanh Trung từ) được xây dựng năm Gia Long thứ 7 (1808) trên nền đất cũ của đền Thanh Trung. Tương truyền từ khi Đức Tô Hiến Thành còn sống hay qua lại vùng Kẻ Giả, nên dân chúng đã hết sức kính trọng và ngưỡng mộ. Do đó làng Ích Vịnh đã làm đền Thanh Trung để thờ ngài. Về sau do điều kiện lịch sử, đình làng Ích Vịnh được xây dựng mới, nhưng vẫn giữ được dáng vẻ ban đầu.
Trong đình hiện còn lưu giữ được cuốn Thần phả và 16 đạo sắc phong sớm mhất là năm Dương Đức thứ 3 (1674)
Thờ  Thành hoàng là Đức đại vương Thái úy phụ chính Tô Hiến Thành, người văn võ song toàn, làm quan dưới thời Anh Tông và Cao Tông nhà Lý (1138-1210).
Lễ hội: 01-03/02
14. Đình Lạc Thị ở th. Lạc Thị, x. Ngọc Hồi, h. Thanh Trì. Đình Lạc Thị nằm liền kề với ngôi chùa làng được xây dựng năm Bảo Thái thứ 7 (1726). Từ đó đến năm 1992, đình làng đã qua nhiều đợt tu sửa bằng bê tông hóa để giữ  cho đình không bị hư hỏng.
Năm 1789, khi Tây Sơn kéo quân ra Bắc đánh giặc Mãn Thanh, đình Lạc Thị đã trở thành một trong những địa điểm tập kết của cánh quân Đô đốc Bảo, đánh tan đồn Ngọc Hồi của địch vào ngày mồng 5 tháng Giêng và tiến vào giải phóng thành Thăng Long.
Thờ Tô Hiến Thành (1102-1179), nguyên Thái úy phụ chính của Lý Cao Tông (1176-1210) lúc vua còn nhỏ tuổi. Ngài quê làng Hạ Mỗ trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng), vợ là bà Lã Thị Dung, người làng Lạc Thị. 
Cả hai vợ chồng sau khi mất đều được dân làng tôn thờ làm thành hoàng, ngày giỗ trở thành ngày hội đình làng.
15. Đình, Chùa Linh Xá ở th. Hữu Thanh Oai, x. Hữu Hòa, h. Thanh Trì.
éLinh Xá là tên ngôi chùa có từ lâu đời của thôn Hữu Thanh Oai, tức Hữu Châu, gọi nôm là làng Hữu Tó, nằm bên bờ hữu ngạn sông Nhuệ, đối diện với làng Tả Thanh Oai, hay Tả Tó.
é Đình Linh Xá tức là đình Hữu Thanh Oai.
Thần phả ghi rằng vào năm 981, Lê Hoàn dẫn đại quân ra Bắc để chống cự cuộc xâm lược của nhà Tống. Khi vua theo đường sông Nhuệ đi qua hai làng Tó và cho dừng chân đóng trại trên một gò đất ngoài đồng làng Hữu Thanh Oai, nhân dân đã ra chúc tụng và dâng cỗ chay. Vua đi rồi, dân làng đã lập miếu thờ ở gò đất đó, do có hình con rùa nên gọi là gò Con Quy.
Thờ Lê Hoàn
16. Đình, Chùa Ngọc Hồi
Cả đình và chùa Ngọc Hồi đều ở x. Ngọc Hồi, h. Thanh Trì.
é Chùa Ngọc Hồi (Ngọc Hồi tự) tương truyền được lập từ thời Trần. Đến cuối thời Lê Trung Hưng, quy mô chùa đã khá lớn. Sau chiến dịch Ngọc Hồi-Đống Đa đầu năm 1789, chùa bị phá hủy nặng nề. Đến thời Nguyễn chùa lại được khôi phục và tôn tạo. Năm 1972 máy bay Mỹ ném bom miền Bắc, chùa bị tàn phá nặng. Sau đó chùa được tiếp tục trùng tu và gần đây nhất là vào năm 2014-2015
éĐình Ngọc Hồi có lẽ cũng có cùng niên đại với chùa Ngọc Hồi, tức được lập từ thời Trần.
Thờ 3 vị thánh vương là Bảo công cùng 2 em gái Ả Mô Nương, Nhị Mô Nương có công trong việc chống giặc Nguyên-Mông.
Đầu TK 13, Ngọc Hồi có tên Vĩnh Khang, là làng đông đúc do 3 anh em ông Bảo công cai quản, trở thành một thế lực quân sự mạnh, ảnh hưởng đến cơ nghiệp của nhà Trần, nên Trần Thủ Độ mang quân đến trấn dẹp, song bị quân của 3 anh em Bảo công đánh bại. Nhưng sau một thời gian Bảo công đem quân của mình về với triều Trần, được gia phong làm tướng và lập được nhiều chiến công trong cuộc kháng chiến  chống Nguyên Mông. Sau khi 3 anh em mất, vua Trần phong tặng Bảo công là Quảng Hóa đại vương, Ả Mô nương là Ả Mô công chúa và Nhị Mô nương là Nhị Mô công chúa, giao cho làng Ngọc Hồi đời đời thờ phụng. Hiện còn 16 đạo sắc phong cho 3 anh em được lưu giữ tại đình.
17. Đình, chùa Nhân Hòa ở đội 6 th. Nhân Hòa, x. Tả Thanh Oai, h. Thanh Trì. 
é Đình Nhân Hòa có trước năm 1632.
Thờ 2 vị thần là thứ phi Triệu Thị Lã và Đông Hải đại vương Đoàn Thượng.
Vào thời Lý có một người là Triệu Thương, vợ là Phạm Thị Hiền làm nhiều việc thiện, ăn ở phúc đức, Bà sinh được quý nữ vào ngày rằm tháng 2  Ất Mùi. Lớn lên cô rất xinh đẹp, năm 16 tuổi được cha cho đi chơi Tây Hồ, gặp vua Lý Anh Tông (1138-1175) đang đi tuần du. Vua thấy người dung nhan tuyệt sắc mới đưa về cung lập làm thứ phi. Năm 72 tuổi bà mất, được vua truy phong thần, truy tặng Hoàng Thái hậu đại vương.
Vị thần thứ 2 là Đoàn Thượng, làm Phó chỉ huy sứ phò vua Lý Huệ Tông (1211-1224). Nhà Lý mất, ngài không quy phục nhà Trần, quay về quê nhà Hồng Châu lập căn cứ chống lại nhà Trần giữ đạo trung quân không thờ hai vua. Vua Trần Thái Tông (1225-1258) sai Lê Phụ Trần đem quân chinh phạt, ngài bị thương, thấy mình yếu thế bèn nhảy xuống biển Đông tuẫn tiết. Cảm động trước tấm lòng trung của ngài, vua Trần Thái Tông phong ngài làm Đông Hải đại vương.
Đình còn lưu giữ được 38 sắc phong, cổ nhất là Đức Long tứ niên (1632) đời vua Lê Thần Tông 
é Chùa Nhân Hòa (Phúc Lâm tự)
Bia được lập ở chùa sớm nhất có niên hiệu Thịnh Đức năm thứ 2 (1654) đời vua Lê Thần Tông, thế thì chùa Nhân Hòa phải có trước niên điểm ấy, tức trước năm 1654.
18. Đền Phạm Tu (tức đình Ngoại) ở thôn Trung, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì.
Thờ Phạm Tu (476-545) một khai quốc công thần của Lý Nam Đế. Danh tướng Phạm Tu được Lý Nam Đế xếp đứng đầu Ban Võ của nhà nước Vạn Xuân. Năm 543 vua Lâm Ấp cướp quận Nhật Nam, vua sai Phạm Tu đánh tan giặc ở quận Cửu Đức. Đến năm 545, Lương Vũ Đế cử Dương Phiêu thay Tiêu Tư cùng Trần Bá Tiên sang đánh nhà nước Vạn Xuân non trẻ, ngài đã hi sinh ở tuổi 70. Các triều đại về sau từng ban 13 đạo sắc phong thành hoàng Đình Ngoại là thượng đẳng Phúc Thần, Đô Hồ đại vương.
Lễ hội: 10/3 (ngày sinh), 20/7 (ngày hóa).
19. Đình Phú Diễn ở thôn Phú Diễn – xã Hữu Hòa h. Thanh Trì. 
Xuất xứ của ngôi đình, được truyền tụng như sau: Sau khi đất nước được thanh bình, Lê Đại Hành liền đi vi hành ủy lao, thăm thú dân chúng và đất nước. Năm 989, ông đã đi qua đất làng Chành (nay là thôn Phú Diễn – xã Hữu Hòa) thấy cảnh non xanh nước biếc, ông liền dừng kiệu thưởng ngoạn (Nơi dừng kiệu nay vẫn còn di tích đó là Cánh đồng Kiệu nằm giữa thôn Thanh Oai và thôn Phú Diễn) sau đó ông vào Rừng Mơ bên cạnh nghỉ chân (Rừng Mơ nay là sân vận động thôn Phú Diễn). Để ghi nhớ công ơn của Lê Đại Hành và dấu tích của ông dân làng đã lập đền thờ tại Rừng Mơ nơi ông nghỉ chân. Đền thờ đó chính là đình thôn Phú Diễn ngày nay. Lúc đầu Đình chỉ là một ngôi nhà tranh, tre, lá nứa. Trải qua 4 lần trùng tu với sự góp công góp của của dân làng nay ngôi đình đã tương đối bề thế, sạch đẹp, khang trang.
Thờ vua Lê Đại Hành cùng Đô Hồ (Hoàng) Trần.
Lễ hội: 14-15/3.
20. Đình Quỳnh Đô ở th. Quỳnh Đô xã Vĩnh Quỳnh h. Thanh Trì. 
Căn cứ vào săc phong còn lưu giữ ở đình, thì đình Quỳnh Đô được xây dựng trước năm 1730, tức vào đầu TK 18.
Thờ Thành hoàng của làng là Thái uý phụ chính Tô Hiến Thành, người làng Hạ Mỗ, thuộc xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, Sơn Tây cũ. Lớn lên lấy hiệu là Phi Diên, đỗ Thái học sinh rồi làm quan đại thần trải suốt ba triều: Lý Thần Tông (1128—1138), Lý Anh Tông (1138—1175), Lý Cao Tông (1175—1210).
Đình còn lưu giữ 24 đạo sắc phong, sớm nhất là sắc phong mang niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 2 (1730) đời vua Lê Đế Duy Phường (1729-1732) thời Lê Trung Hưng.
Lễ hôi: 05-07/02
21. Đình Siêu Quần ở Đội 12 thôn Siêu Quần, x. Tả Thanh Oai, h. Thanh Trì. 
Chưa có thông tin về sự ra đời của ngôi đình.
Đình Siêu Quần thờ hai vị nhân thần có công với nước thời Lê Sơ là khai quốc công thần Trịnh Khả và tiến sĩ Nguyễn Phục. Phối thờ còn có hai bà vợ là Diệu La công chúa và Quý Minh Trí Tỉnh phu nhân. Trong hậu cung hiện còn giữ được 11 đạo sắc phong. Việc thờ Trịnh Khả là do dân quê ông từ Thanh Hóa chuyển cư ra, đem theo cả thành hoàng ở làng gốc.
-Trịnh Khả người Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Tổ tiên có công đánh giặc Nguyên. Ông là con út, khi còn rất trẻ đã theo Lê Lợi tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416. Do lập nhiều chiến công ở cầu Xa Lộc, Ninh Kiều, Tốt Động, cửa ải Lê Hoa, sau khi đánh thắng giặc Minh ông được ban quốc tính. Trịnh Khả từng làm trấn thủ xứ Tuyên Quang rồi Lạng Sơn. Năm 1451 do bị dèm pha, ông và con là Trịnh Bá Quát bị giết. Đời Lê Thánh Tông (1460 –(1497) được minh oan, truy tặng tước Thiếu phó Liệt quốc công.
-Nguyễn Phục quê Đình Vân, huyện Gia Phúc, xứ Hải Dương. Cha theo nho học, mẹ họ Nguyễn quê Kẻ Am, huyện Thanh Trì. Ông đỗ tiến sĩ khoa Quý Dậu (1453), sau đó được mời vào cung để dạy hai hoàng tử Nghi Dân và Tư Thành. Nguyễn Phục từng ba lần đi sứ nhà Minh, học được nghề trồng dâu, nuôi tằm về dạy cho dân. Năm 1470 ông phụ trách quân lương theo Lê Thánh Tông (1460-1497) nam chinh và bị xử chết do thuyền lương đến chậm. Sau khi giải oan, ông được triều đình ban sắc phong truy tặng.
Lễ hội: 10-11/02
22. Chùa Thanh An (Thanh An thiền tự) ở th. Yên Xá, x. Tân Triều, h. Thanh Trì. Tương truyền chùa được lập rất lâu đời, đã trùng tu nhiều lần, nay không còn giữ được dáng vẻ ban đầu, mà chỉ còn kiến trúc thời Nguyễn. 
Ngoài thờ Phật, chùa còn thớ Mẫu, tạo thành kiến trúc tiền Phật hậu Thánh. Trong chùa hiện còn 21 tấm bia đá, trong đó có 16 tấm bia hậu dưới thời Lê Trung Hưng đều ghi năm Nhâm Tý (1612, 1672, 1792).
23. Đình, Chùa, Miếu Thọ Am ở th. Thọ Am, x. Liêu Ninh, h. Thanh Trì. Căn cứ vào sắc phong có thể đoán định đình, đền, miếu làng Thọ Am có từ đầu TK 17. 
éMiếu và đình thờ 2 vị nhân thần là tướng quân Đoàn Thượng và quan nghè Nguyễn Phục (xem thêm số 21/ Thanh Trì (đình Siêu Quần).
Cạnh đình là ngôi đền nhỏ thờ bà mẹ ngài Nguyễn Phục
éChùa Thọ Am (Bất Nhiễm tự): Tương truyền từ năm 684 chùa đã được xây cất  trên một gò đất có thế “rồng cuộn đàn cá chép”, chầu về hướng làng Phương Nhị, nơi chôn xác thầy phù thủy Cao Biền.
Sau lần tôn tạo và mở rộng vào cuối TK 20, chùa lại được trùng tu nâng cấp từ 2013.
Bên cạnh việc thờ Phật, trong chùa Bất Nhiễm còn có điện thờ Mẫu khá hoành tráng.
24. Đình, Đền, Chùa Triều Khúc đều ở th. Triều Khúc, x. Tân Triều, h. Thanh Trì.
Đình-đền –chùa Triều Khúc đều thờ Bố Cái đại vương Phùng Hưng, quê Đường Lâm, thị xã Sơn Tây. Trong khi đem quân đi đánh thành Tống Bình, Phùng Hưng đóng doanh trại tại làng Triều Khúc, nên sau khi ông mất, làng Triều Khúc đã lập đền thờ ông.
é Chùa Triều Khúc (Hương Vân tự) nằm về phía đối diện với đình và đền, trong một khuôn viên rộng đến 2500m2
Theo hiện vật còn lại là câu đối hiện treo ở Tam bảo của chùa, thì chùa Triều Khúc có dấu tích từ thời nhà Đinh. Xưa kia chùa có tên là Vân Mộng tự. Tên này là do một thí chủ nằm chiêm bao thấy một đám mây lành tụ lại trên mảnh đất của chùa nên khi xây dựng chùa xong lấy tên là Vân Mộng tự. Sau đó, lại có một thí chủ thấy mảnh đất hiện tại của chùa có hình cái chén tỏa ra hương thơm nên đặt tên chùa là Hương Trản tự. Ngày ấy chùa được xây dựng nhỏ và rất sơ sài. Chùa cũng đã trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử. Năm 1936, sư tổ Thích Thanh Khánh trụ trì chùa đã nhận được sự giúp đỡ của sư tổ chùa Bát Mẫu (là người địa phương Triều Khúc) cùng với chính quyền và người dân thôn Triều Khúc, phát tâm xây dựng lại chùa. Năm 1938, ngôi chùa được hoàn thiện theo phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Từ đó, chùa đã lấy chữ “Hương” của “Hương Trản tự” và chữ “Vân” của “Vân Mộng tự” thành “Hương Vân tự” cho đến ngày nay.
é Đền Triều Khúc được xây dựng ở giữa làng không rõ được xây dựng khi nào.
éĐình Triều Khúc gồm có ngôi đình Lớn (tức đình Đại) và đền thờ Sắc (hay đình Trên) nằm cách xa nhau đến vài trăm bước. Toàn bộ khuôn viên đình có quy mô khá đồ sộ. Sau khi trải qua nhiều đợt trùng tu và mở rộng, hiện nay các công trình chủ yếu mang phong cách nghệ thuật kiến trúc của thời Nguyễn
Lễ hội: 10-12/01
25. Chùa Tự Khoát (Hưng Phúc tự) thuộc xã Ngũ Hiệp, h. Thanh Trì.
Theo truyền thuyết vào cuối đời Lý Huệ Tông (1211-1224) có hai chị em công chúa là Từ Thục và Từ Huy xuất gia tu hành ở am Đông Phù đều thuộc vùng Ngũ Hiệp. Hai bà đã chia ruộng đất cho dân nghèo và giúp họ vốn liếng để trồng lúa, trồng dâu, mở lò rèn… Khi vua cha gọi về triều để gả cho thổ hào vùng biên giới, hai bà nhất quyết không tuân lệnh. Nhà vua nổi giận cho đốt am nhằm triệt chỗ nương thân của con song hai bà lại được dân làng Tự Khoát đón về, dựng lại am trên gò Trúc Lĩnh, rồi mở mang am thành chùa, nên gọi là chùa Tự Khoát (chùa mở rộng). Hai bà hóa vào ngày 15 tháng 3 âm lịch. (xem thêm mục 12/Thanh Trì)
Chùa hiện có 52 pho tượng tròn, 1 quả chuông, 3 tấm bia đá, nhiều hoành phi, câu đối… mang nét nghệ thuật thời nhà Lê và thời nhà Nguyễn.
26. Đình Văn Điển:  Chưa có nhiều thông tin về ngôi đình này, nhưng căn cứ vào sắc phong có thể suy đoán ngôi đình có niên đại nửa đầu TK 15. 
Các di tích lịch sử còn lại ở địa bàn này là Đình Văn Điển và chùa Quang Minh.
éĐình Văn Điển mới được tu bổ năm 1995 là nơi thờ Nguyễn Bồ và Nguyễn Phục-hai vị tướng có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước. 
é Chùa Quang Minh xây từ đời Lê, trong chùa còn quả chuông đúc năm Cảnh Thịnh thứ sáu (1797).
27. Đình Việt Yên  ở thôn Việt Yên, xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì.  Chưa có tài liệu nào cho biết đình được xây dựng từ khi nào, nay căn cứ vào sắc phong còn lưu giữ ở đình có thể đoán đình Việt Yên có niên đại từ nửa đầu TK 15.
Thờ tướng Nguyễn Siêu làm thành hoàng làng. Thần họ Nguyễn, tên húy là Triều, tên chữ là Nguyễn Siêu, sinh giờ thân, tháng giêng năm Giáp Thân (cuối thế kỉ 9) là bậc anh tuấn phi thường, ông gốc người Bắc quốc, cha chết, không về nước theo mẹ ở lại làm người Nam. Vốn người giàu có, lại có tài vũ dũng thao lược, được Ngô Vương Quyên tín dũng cho làm thống lĩnh tướng quân. Tướng quân chiếm lĩnh Đông Phù Liệt. Nguyễn Siêu phủ dụ kẻ xa gần, chiêu người hiền, khắp nơi đều nể uy. Chừng 7 năm sau, trong nước vô chủ, 12 sứ quân tranh ngôi thứ. Mãi đến tháng 11 Nhâm Dần, Đinh Bộ Lĩnh chiêu binh khởi nghĩa, tất cả bộ lạc đều sợ, thiên hạ cho rằng không địch nổi. Nguyễn Siêu cho quân sĩ tập luyện, xây thành đắp lũy trên từ sông Cái xã Việt Yên, dưới thì ngang sông Con tới xã Phúc Am. Đinh Bộ Lĩnh biết tin thẳng đến. Nguyễn Siêu chuẩn bị lương thảo, thiết lập cạm  chống lại. Ngày 10.7 hội thề, phân quân số làm hai, một giữ thành, một cầu viện binh. Ngày 15.7 bỗng nhiên lũ lớn, gió gầm thét, thuyền rồng đắm, khí giới quân nhu đều mất cả. Việt Yên là nơi đóng đồn lũy của tướng quân Nguyễn Siêu, nên được các triều đình Lý, Trần, Lê sau này cho lập đền thờ và phong sắc. Sắc sớm nhất là Hồng Đức 2 (1471), Cảnh Thống 1 (1498), Cảnh Hưng 28 (1767) và các triều Nguyễn sau này.
28. Đình Vĩnh Ninh ở th. Vĩnh Ninh, x. Vinh Quỳnh, h. Thanh Trì.
Chưa có tài liệu chính thức cho biết đình Vĩnh Ninh được xây dựng khi nào. Nay bằng vào sắc phong thần sớm nhất vào thời Cảnh Hưng (1740-1786), có thể suy đoán ngôi đình được dựng vào đầu TK 18.
Thờ Bà Tía-một nữ tướng của Hai Bà Trưng và 2 Ông Rắn và Ông Đất.
Thần tích kể về Bà Tía rằng: Bà mẹ là người làng, mộng thấy được thần tặng hoa sen mà có thai sinh ra nàng. Bố mẹ mất sớm, nàng Tía ở với bà cô, dung mạo xinh đẹp lại có tài võ nghệ. Năm nàng Tía 15 tuổi, Hai Bà Trưng lên ngôi vua, có một lần qua làng gặp nàng đang gánh nước bên giếng bèn hỏi chuyện. Cảm mến tài trí, vua Bà đưa về triều. Năm 43, Mã Viện sang đánh Âu Lạc, nàng Tía được phong tướng, đánh nhiều trận. Cả đến khi hay tin Hai Bà đã tự vẫn, nàng Tía vẫn câm quân chống cự ở cửa Thần Phù. Giữa sóng to gió cả, mưa kéo đen trời đất, nàng Tía đã hóa đi vào cõi bất diệt. Dân làng lập đình thờ Nàng cùng với ông Rắn và ông Đất.
29. Chùa Yên Phú (Thanh Vân cổ tự hay Khánh Vân tự) nằm ngay sát Quốc lộ 1A tại x. Liên Ninh, h. Thanh Trì. 
Chuyện kể rằng cô gái trẻ Phương Dung bản quán phủ Nghĩa Hưng, đạo Sơn Nam, trong một lần cùng cha mẹ tới châu Thường Tín (nay là Thanh Trì), khi qua đầu làng thấy ngôi chùa Yên Phú cảnh đẹp phong quang, duyên lành bay toả, cô đã quyết định ở lại chùa hương khói phụng thờ, sớm tối tụng kinh niệm Phật và đặt tên chùa là Thanh Vân cổ tự, và bà Phương Dung chính là vị sư tổ của chùa Yên Phú. Chính bà cũng là một trong những nữ tướng đã chiêu mộ, tập hợp hàng ngàn binh lính quanh vùng tham gia cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, góp sức đánh tan quân tướng Thái thú Tô Định  của nhà Đông Hán.
Hiện nhà chùa còn lưu giữ 23 đạo sắc phong, bản cổ nhất thuộc niên hiệu Phúc Thái năm thứ 5 (1647). Thế thì câu chuyện kể trên có lẽ chỉ là huyền thuyết chăng? 
Lễ hội: 05-07/11
30. Đình Yên Xá ở ngõ 87 Yên Xá, x. Tân Triều, h. Thanh Trì: Tương truyền được xây dựng từ thời Lý.
Tương truyền này cần khảo cứu lại vì có 2 vị Linh Lang: một vị ở triều Lý và một vị ở triều Trần. Đình Yên Xá lại không có thần phả, những truyền ngôn của người đời được gán cho hai chữ ‘tương truyền’ để thêm sức nặng! 
Theo tương truyền thì đình Yên Xá thờ Linh Lang đại vương. Vị thần này được các triều đại phong kiến ban tặng 38 săc phong, đạo sớm nhât có niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 8 (1626) đời vua Lê Thần Tông. Qua đó tương truyền nói trên là đáng ngờ. Vậy mà ngôi đình cùng với chùa làng đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa quốc gia vào năm 1990!.
(Thần Linh Lang triều Trần, xin xem đình Nhật Tân,  số 7/Tây Hồ)).
Lễ hội: 09-11/02.
 
HUYỆN SÓC SƠN
1. Đền Chôi ở th. Xuân Kỳ, x.Đông Xuân, h. Sóc Sơn. Theo truyền ngôn thì đền Chôi được xây dựng lâu đời, nhưng theo văn bia ở đền cũng như thượng lương của ngôi đền, có thể khẳng định đền được xây dựng vào thời nhà Nguyễn.
Thờ Đức Hòa Nhạc Đại Vương có công rèn vũ khí bằng sắt cho Thánh Gióng đánh giặc Ân.
Theo truyền thuyết, Đức Hòa Nhạc Đại Vương sinh ra ở làng Đa Hội, Bắc Ninh. Đức Hòa Nhạc cũng được cử làm tướng cùng Ông Gióng đi đánh giặc. Sau khi phá tan giặc Ân, Ông Gióng lên núi Sóc phi thiên hiển thánh, Vua Hùng phong cho ngài là Thượng Đẳng Thiên Vương Sóc Sơn Đại Thần bất tử, người đời gọi là Thánh Gióng. Còn Đức Hòa Nhạc trở về Xuân Kỳ hiển thánh, hóa tại gò mộ và được Vua Hùng suy tôn Hòa Nhạc Đại Vương bất tử Thượng đẳng Thành hoàng.
2. Cụm Di tích Đền Gióng thuộc x. Phù Linh, h. Sóc Sơn. 
Đền Gióng còn gọi là Đền Sóc thờ Thánh Gióng, tức Phù Đổng Thiên Vương, được dựng trên núi Vệ Linh, Sóc Sơn, xưa thuộc địa phận hương Bình Lỗ, nay thuộc x. Phù Linh, h. Sóc Sơn.
Cụm di tích gồm nhiều di tích nhưng chủ yếu và quan trọng có: Đền Thượng, Đền Hạ, Đền Mẫu và Chùa Non Nước.
Sau khi đánh thắng giặc Ân, Vua Hùng sai dựng  đền thờ để ghi công ơn của Thánh Gióng. Vua sắc phong ghi hiệu Đổng Thiên Vương. Ngôi đền được dựng vào đúng nơi có vết chân ngựa sắt, tức là ngôi Đền Thượng ngày nay. Tiếp đó dân lại dựng thêm ngôi đền nữa gọi là đền Mã. Ngôi đền này đã bị giặc phá mất tích.
* Đền Thượng có niên đại xưa nhất và có nhiều tình tiết phức tạp. Theo tục truyền nơi đó vào buổi bình minh của lịch sử của người Việt cổ đã tôn thờ một tảng đá có dấu vết chân người cực to gọi là Ông Dùng (tức là to, lớn). Từ hòn đá buổi ban đầu xuất hiện một ngôi miếu nhỏ, rồi đến lớn. Đó là quá trình Thánh Gióng với sự tích phá giặc Ân kỳ vĩ được đồng nhất với Ông Đùng có sức dời núi, lấp biển.
* Đền Hạ thờ sơn thần thổ địa là các vị thần cai quản núi Sóc. Gần đó có tấm bia 8 mặt kể chuyện Thánh Gióng được dựng năm Dương Đức thứ nhất (1672) đời vua Lê Gia Tông.
* Đền Mẫu và chùa Đại Bi:
Đền Mẫu thờ bà mẹ sinh ra Thánh Gióng.
Chùa Đại Bi nơi tu hành đầu đời của Khuông Việt Đại sư Ngô Chân Lưu.

 

Chùa Đi Bi trong khu di tích Đn Sóc – nơi tu hành đu đi ca Khuông Vit Đi sư Ngô Chân Lưu.

 


* Chùa Non nước tên chữ là Sóc Thiên Vương Thiền tự, tọa lạc trên núi Vệ Linh, ở độ cao 110m so với mực nước biển, thuộc xã Phù Linh huyện Sóc Sơn. Tương truyền vào giữa TK 10 đây là nơi Thiền sư Ngô Chân Lưu thường lui tới vãn cảnh. Một lần đêm về nằm ngủ có vị thần linh báo mộng, theo sự chỉ dẫn của thần, Thiền sư cho chặt cây tạc tượng, dựng am để thờ. Đến đầu thời Lý thì được dựng thành chùa. Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam. Trước đây, mỗi lần gặp hạn hán thiên tai, chiến tranh địch họa, các vua đều đến đây cầu đảo và rất linh ứng. 
Ngô Chân Lưu, quê ở hương Cát Lợi huyện Thường Lạc sau  này là thôn Đoài xã Gia Hạ huyện Kim Hoa phủ Bắc Hà, nay là thôn Thụy Hương xã Phú Cường huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
Ngài xuất gia ở chùa Phật Đà, thụ giáo Văn Phong Thiền sư ở chùa Khai Quốc, được truyền tâm ấn, đứng vào thế hệ thứ tư dòng thiền Quan Bích (tức dòng thiền Vô Ngô Thông, được truyền vào nước ta năm 820). Năm 971 được Đinh Tiên Hoàng phong chức Tăng thống được triều đình coi là người đứng đầu Phật giáo và ban hiệu Khuông Việt Đại sư.
Trải qua bao năm tháng bể dâu, chiến tranh tàn phá, mưa gió dập vùi, chùa đã bị đổ nát hoàn toàn, không còn dấu tích gì. Năm 2000 doanh nhân Vũ Văn Tiền quê Tiền Hải-Thái Bình và Công ty Xuất nhập khẩu Hà Nội đã phát tâm dâng cúng, cho đúc đại Phật tượng, dựng đại điện đường, xây quảng trường, lập trụ đá khởi đầu cho việc phục dựng ngôi chùa. Cùng với sự đồng tâm cúng tiến của rất nhiều doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, của hàng vạn bà con Phật tử, ngôi chùa đã được xây dựng khang trang bề thế như hiện nay.
3. Đình Đức Hậu ở thôn Đức Hậu, x. Đức Hòa, h Sóc Sơn. 
Theo phong cách chạm trổ trên vì kèo, dầm xà có thể đoán định, đình được xây dựng vào TK 17.
Thờ Đức Thánh Tam Giang tức Trương Hống, Trương Hát là hai viên tướng trung thành của Triệu Việt Vương (548-570). Năm 570, Triệu Việt Vương bị Lý Phật Tử đến đánh, bị thua bỏ chạy đến cửa biển Đại Nha thì chết. Dân lập đền thờ ngài ngay tại đó, hiện tại đền thuộc thôn Độc Bộ, xã Yên Nhân, huyện Ý Yên, Nam Định. Trương Hống Trương Hát, hai viên tướng trung thành của Triệu Việt Vương tuẫn tiết ngày 10 tháng 4 năm 571 chứ không theo Phật Tử.
4. Đền Hạ Mã ở th. Phù Mã, x. Phù Linh, h. Sóc Sơn. Căn cứ vào tấm bia còn lưu giữ tại đền có niên đại Chính Hòa nguyên niên (1680), thì đền được xây dựng vào thời Lê với tổng diện tích 18.000m2
Trải qua chiến tranh và bao biến cố của lịch sử, sau thời gian tiêu thổ kháng chiến, đền bị phà hủy nghiêm trọng. Mãi đến những năm 90 của TK 20, nhân dân địa phương công đức xây dựng lại với kết cấu đơn giản để làm nơi thờ tự.
Theo truyền thuyết, Ông Gióng sau khi đánh tan giặc Ân, trên đường về núi Sóc, qua Phù Mã, xuống ngựa để lại yên cương, rồi một người một ngựa lên đỉnh núi Sóc bay về trời. Tại Phù Mã nhân dân lập đền thờ Thánh Gióng gọi là đền Hạ Mã.
5. Đình Hạ Xuân Lai  thuộc th. Xuân Lai, x. Xuân Thu, h. Sóc Sơn.
Chưa có nguồn tư liệu thành văn cho biết đình được xây dựng từ khi nào, nhưng căn cứ các hiện vật ở đình thì có thể đoán định đình được xây dựng vào cuối Lê đầu Nguyễn. Đặc biệt trong đình còn lưu giữ được cuốn thần phả và 8 đạo sắc phong.
Thờ Đức Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát, danh tướng dưới thời Lý Nam Đế và Triệu Việt Vương, TK 6
 (Sự tích Đức Thánh Tam Giang được trình bày chi tiết tại  số 3/Sóc Sơn đình Đức Hậu.
6. Đền Hàng Tổng ở th. Xuân Lai, x. Xuân Thu, h. Sóc Sơn. Tương truyền thôn Xuân Lai là nơi dừng chân của Ông Gióng khi ngài trên đường truy đuổi giặc Ân từ đất Vũ Ninh. Đoàn quân của Ông Gióng khi qua đây, thấy phong cảnh hữu tình đã dừng chân nghỉ lại, dân chúng bèn đem chiếu ra trải mời ngài ngồi nghỉ và mang nước ra mời ngài uống. Ghi nhớ sự kiện này, khi Ông Gióng thắng giặc, lên núi Sóc bay về trời, dân làng lập đền thờ ngài tại nơi ngài nghỉ ngơi.
Thờ Thánh Gióng.
7. Đình Hiền Lương ở làng Hiền Lương, x.Hiền Ninh, h. Sóc Sơn. Tiền thân của ngôi đình là một ngôi đền có khởi nguồn từ thời Lý để thờ Thần Sông và Thần Đất. Khi Đề Thám về hoạt động tại vùng này, thì đình Hiền Lương là căn cứ của nghĩa quân. Năm 1912, tại đình Hiền Lương đã diễn ra một trận đánh ác liệt giữa quân Đề Thám và quân Pháp. 
Đình Hiền Lương còn lưu giữ được nhiều di vật quý từ TK 18, nhưng lại không có thần phả.
Thờ 4 vị Thành Hoàng là Thần Sông, Thần Đất, vua Lý Nam Đế và Vương Bà (dân gian gọi là Vân Vân Á).  Ngoài Đức Vua Lý Nam Đế ra, còn 3 vị khác không có thần tích.
8. Đền Hương Gia ở thôn Hương Gia, xã Phú Cường, huyện Sóc Sơn. Theo các cụ già kể lại, đền được xây dựng khá sớm ở cánh đồng Lẻ, cách làng Gia Hạ khoảng 1km. Sau này, đền được chuyển về vị trí giữa làng như hiện nay. 
Thờ 5 anh em: Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy và cô em gái Đạm nương. Cùng giúp Triệu Việt Vương đánh giặc. 
9. Đình Phù Xá Đoài ở làng Phù Nầm,  xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn.
Đình Phú Xá Đoài được xây dựng từ thời Lê, các mảng chạm khắc và kiến trúc TK 18 còn đang hiện diện ở đây.
Đình Phù Xá Đoài thờ Lê Phụng Hiểu – một danh tướng thời Lý..
Lê Phụng Hiểu người Hoằng Hóa thuộc châu Ái, nổi tiếng có sức khỏe hơn người và rất giỏi võ nghệ. Lê Phụng Hiểu được vua Lý Thái Tổ phong chức Võ Vệ tướng quân. 
Tháng 3 năm Mậu Thìn (1208) vua  Lý Thái Tổ mất. Ba Vương: Đông Chinh, Dực Thánh và Vũ Đức đem quân mai phục mỗi người một nơi đợi Thái tử Phật Mã đến thì đổ ra đánh, bị Lê Phụng Hiểu chém chết Vũ Đức Vương, quan quân đuổi theo đánh giết sạch quân phản loạn, chỉ có hai vương trốn thoát được.
Khi Lê Phụng Hiếu mất, vua Lý Thái Tông (1028-1054) ban sắc phong làm phúc thần.
10. Đền Sọ ở th. Phú Xá Đoài, x. Phù Lỗ, h. Sóc Sơn. Đền Sọ được 3 tổng: Phù Xa, Xuân Nộn, Phù Lỗ cùng lo tổ chức lễ hội, do vậy mà gọi là đền Tam Tổng. 
Đền thờ Thánh Gióng một vị thánh có công đánh đuổi giặc Ân sang xâm lược nước Văn Lang vào đời vua Hùng Vương thứ sáu. Sau khi đánh đuổi quân xâm lược ông đã phi ngựa đến chân núi Sóc Sơn, ghìm cương, cởi giáp và nón treo lên một cành cây, rồi quay chào bốn phía quê hương. Cả người lẫn ngựa từ từ bay thẳng lên trời, từ bấy đến giờ không còn thấy trở về dân gian. Từ đó hàng năm người dân tổ chức hội đền Sóc Sơn vào ngày mồng 6 tháng giêng âm lịch. Hiện nay, trên đỉnh núi Đá Chồng, Thành phố Hà Nội và Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã xây dựng Tượng đài Thành Gióng bằng đồng cao hơn 10 m, nặng gần 80 tấn. 
Theo truyền tích, đền Sọ là nơi Ông Gióng dừng chân nghỉ ngơi, gội đầu trên đường đi đánh giặc Ân. Do đền Sọ được xây dựng trên vùng đất mang tên Kẻ Sọ, nên mới có tên đền Sọ. Đền được xây dựng bề thế từ thời Lê Thánh Tông niên hiệu Hồng Đức (1470-1497) trên nền đất cũ của ngôi đền nhỏ dưới thời Hùng Vương. 
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đền Sọ bị tàn phá nặng nề. Đến cuối những năm 90 của TK 20, dân trong vùng tu bổ phục hồi đền như ngày nay. 
Trong các cổ vật được lưu giữ ở đền, đặc biệt có tấm bia đá ghi rõ việc 52 xã trong Tam Tổng có trách nhiệm phụng thờ Phù Đổng Thiên Vương.
11. Đình Thạch Lỗi thuộc th. Thạch Lỗi, x. Thanh Xuân, h. Sóc Sơn. Thôn Thạch Lỗi nằm trong tam tổng cùng lo việc thờ Thánh Gióng. 
Căn  cứ vào văn bia khắc vào năm Cảnh Hưng 23 (1762) nay còn trong nội thất tòa tiền tế đình Thạch Lỗi: “Ngày 21 tháng 5 năm Giáp Tý (1744) đình bị giặc tàn phá, nhân dân phiêu tán, đến năm Canh Ngọ (1750) bắt đầu khôi phục, mua sắm vật liệu, năm Tân Tỵ (1761) sửa đình, chỗ nào dập nát thì tu bổ lại” suy ra đình Thạch Lỗi đã được xây dựng cách nay chừng 300 năm.
Đình Thạch Lỗi thờ Thành hoàng làng là Đức Thánh Tam Giang (sự tích Đức Thánh đã trình bày chi tiết ở đình Đức Hậu).
12. Đền Thanh Nhàn thuộc ở xóm Trung, th. Thanh Nhàn, x. Thanh Xuân, h. Sóc Sơn.
Ngôi đền đã có từ lâu theo sắc phong và bi kí ghi lại cuối TK 16 đã có đền. Đến năm 1947, thực dân Pháp cùng tay sai đã phá hoại; chỉ còn lại cung đệ nhất; cung đệ nhị và cung đệ tam mới được khôi phục lại trên nền cũ. 
Đền còn được gọi là đến Tam Tổng vì đền thờ Phù Đổng Thiên Vương do 3 tổng Cổ Bái, Kim Anh và Gia Thượng cùng lo việc thờ cúng.
Tương truyền đây là nơi Đức Thánh Gióng đi qua, nghỉ ngơi lấy thêm quân trong dân làng để đánh giặc Ân. 
Lễ hội: 06/01
13. Đền Thắng Trí ở th. Thắng Trí, x. Minh Trí, h. Sóc Sơn.
Hiện chưa có tư liệu về năm ra đời của ngôi đền.
Thờ Cao Sơn, Quý Minh là 2 vị tướng có công  lớn trong cuộc đấu tranh với quân Thục Phán dưới thời Hùng Vương thứ 18. 
Theo truyền thuyết, sau khi chiến thắng quân giặc ở chân núi Sóc, hai ông đã mở tiệc ăn mừng đổi tên làng Thanh Hoa thành làng Thắng Trí. Sau khi mất, Cao Sơn được phong Đệ Nhất Thánh Cả Cao Sơn, Quý Minh là Đệ Nhị Quý Minh hiển ứng. Đền còn thờ thần bản thổ Cao Sơn Uy Minh.
Đình còn bảo lưu được nhiều hiện vật quý, đặc biệt quyển thần tích ghi công lao của Cao Sơn, Quý Minh và Nga Hoàng công chúa, được biên soạn năm Hồng Đức thứ 3 (1472)    
14. Đền Thụy Hương thuộc th. Thụy Hương, x. Phú Cường, h. Sóc Sơn. Đây là quê của Đại Sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933-1011).
Đền được xây dựng khá sớm, còn lưu giữ được nhiều đạo sắc phong, sớm nhất là sắc phong năm Phúc Thái thứ 5 (1647) thời vua Lê Chân Tông.
Thờ anh em Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy và cô em gái Đạm nương.
Anh em Trương Hống có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nam Lương xâm lược, được Triệu Việt Vương phong Trương Hống làm Thượng tướng quân, Trương Hát là Tả quân vụ, Trương Lừng là Hữu quân vụ. Sau khi mất các ông được phong thần và được nhiều nơi thờ phụng (Sự tích về Đức Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát xin xem ở đình Đức Hậu số 3/Sóc Sơn).
15. Đình Thượng Xuân Lai thuộc th. Xuân Lai, x. Xuân Thu, h. Sóc Sơn.
Chưa có tài liệu thành văn chính thức xác nhận năm ra đời của ngôi đình, nhưng căn cứ vào tấm bia “Hậu thần bi ký” được lập vào năm Chính Hòa 13 (1692) ghi lại công đức của một vị thái giám đã có công cứu dân nghèo, bỏ tiền sửa chữa lại ngôi đình-có thể nhận định đình Thượng Xuân Lai được khởi dựng từ thời Lê Trung Hưng, ít ra cũng vào khoảng giữa TK 17.
Thờ Thành hoàng làng là Đức Thánh Tam Giang
(Sự tích về Đức Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát xin xem đình Đức Hậu số 3/SSơn).
NGÔ VUI 
sưu tầm và biên khảo.