TƯ LIỆU THUYẾT MINH HƯỚNG DẪN DU LỊCH: Tục thờ Bà Chúa Xứ ở Tây Nam Bộ qua nghiên cứu Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam, An Giang.

 
(1) Khi bước chân vào không gian của vùng đất Tây Nam Bộ, “tín ngưỡng Bà Chúa Xứ” là tên gọi được nhiều người biết đến, mặc dù theo quan điểm của tác giả, không thể gọi như thế vì Bà Chúa Xứ là một đối tượng trong tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung mà thôi. Tuy nhiên, một thực tế là trong quá trình tiếp cận các nguồn tài liệu, rất nhiều công trình khi nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu ở vùng Nam Bộ đều sử dụng thuật ngữ “tín ngưỡng Bà Chúa Xứ”[1]. Nói như thế để thấy rằng hình tượng Bà Chúa Xứ trong tâm thức của người dân vùng Nam Bộ nói riêng, và vùng đồng bằng sông Cửu Long là vô cùng mạnh mẽ.
Hiện nay tồn tại khá nhiều dị bản khác nhau về sự hình thành Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam. Đây được xem là tổ miếu của dạng thức tín ngưỡng này, có qui mô lớn nhất vùng, không chỉ mang ý nghĩa phản ánh đời sống văn hóa tinh thần của cư dân địa phương, mà còn có ý nghĩa trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua hoạt động du lịch.
Bài viết ngắn này sẽ đề cập đến 4 khía cạnh liên quan đến tục thờ Ba Chúa Xứ bao gồm: Truyền thuyết – Hình tượng Mẫu – Hệ thống điện thờ – Lễ hội Vía Bà.
(2) Truyền thuyết thứ nhất, trên núi Sam[2] ngày xưa có một bệ tượng hình vuông bằng đá sa thạch. Vào những năm đầu thế kỷ XIX, giặc Xiêm thường sang khu vực này để quấy nhiễu. Trong một lần lên núi và bắt gặp tượng Bà, họ liền có ý định cậy tượng ra khỏi bệ đá để đem xuống núi. Nhưng kỳ lạ thay tượng trở nên nặng vô cùng, họ không cách nào khiêng được mặc dù có bao nhiêu lính tráng khỏe mạnh. Trong lúc tức giận, một quân lính người Xiêm đã vớ một khúc gỗ phang vào tượng làm sứt một miếng ở cánh tay. Ngay lập tức người lính Xiêm này hộc máu chết tại chỗ [5,tr.419]. Sau đó, một hôm dân làng lên núi thấy tượng Bà bèn cùng nhau khiêng tượng về lập miếu thờ. Tuy nhiên, cũng như lần trước, tượng nặng vô cùng, bao nhiêu trai tráng trong làng góp sức nhưng cũng không khiến cho bức tượng xê dịch được. Lúc đó, bỗng một phụ nữ lên đồng, tự xưng là Bà Chúa Xứ và phán rằng, muốn thỉnh Bà xuống thì cần phải có 40 cô gái đồng trinh tắm rửa sạch sẽ mới có thể khiêng Bà xuống. Dân làng tin lời và làm theo. Quả thật linh nghiệm; tuy nhiên, đến chân núi Sam thì tượng Bà lại trở nên nặng trịch, không thể khiêng tiếp được nữa. Hiểu được dụng ý của Bà, dân làng liền cho lập đền thờ ở khu vực này [6, tr.276-277].
Truyền thuyết thứ hai kể lại rằng cách đây gần 200 năm, có một cô gái trong làng Vĩnh Tế bỗng lên đồng, tự xưng là Bà Chúa Xứ về núi Sam để cứu dân độ thế. Bà còn nói thêm là hiện nay, tượng Bà đang ngự trên núi, yêu cầu dân làng lên núi thỉnh về để thờ phụng. Dân làng liền phái 40 chàng thanh niên lực lưỡng lên núi để khiêng tượng, nhưng cũng không thể xê dịch bức tượng. Lúc đó, cô gái lại lên đồng và cho dân làng biết chỉ cần 9 cô gái đồng trinh là có thể khiêng được. Quả thật linh nghiệm; đến chân núi Sam, dây khiêng tượng bị đứt, thế là dân làng hiểu ý Bà mà cho lập miếu thờ Bà ở đây.
Truyền thuyết thứ ba thì cho rằng, dưới thời Thoại Ngọc Hầu trấn thủ Châu Đốc, đeo ấn bảo hộ Cao Miên, vợ ông (tức là bà Châu Thị Tế) ở nhà thường cầu nguyện cho ông bình an trở về, nếu được thì sẽ lập chùa thờ Phật để báo ân phù hộ. Sau khi Thoại Ngọc Hầu trở về, ông vì cảm kích trước tấm lòng của vợ mình nên đã cho quân lính sang tây Trấn Thành chở cốt Phật về lập chùa để thờ, đặt tên là chùa Tây An. Chùa xây xong, ông lo ngại tin đồn ác ý rằng xây chùa để thờ Phật của giặc nên đưa pho tượng ra ngoài chùa, lập miếu thờ để tránh phiền phức.
Truyền thuyết thứ tư thì kể về việc một thiếu phụ Cao Miên đi tìm chồng, đến chân núi vì quá mệt mỏi nên đã ngồi nghỉ, sau đó bà đã hóa đá ở chân núi này. Sau đó, linh hồn người phụ nữ này nhập vào cốt đồng để nói về quá khứ và tương lai để giúp đỡ những người hiền và trừng phạt những người xấu. Dân làng liền lập miếu thờ và gọi bà là Bà Chúa Xứ.
Trong cuốn Địa chí du lịch An Giang thì mô tả truyền thuyết về Bà tương đồng với truyền thuyết thứ ba mà tác giả đã đề cập ở trên, duy chỉ có khác ở việc là Bà Chúa Xứ đã nhập vào một bé gái chứ không phải là một cô gái như thuyết thứ ba đã đề cập [2,tr.51]. Các học giả đi trước đã có những mô tả khác nhau về nguồn gốc thần tích của Bà Chúa Xứ trong những công trình của mình; tác giả sẽ không đi sâu vào việc lý giải những thần tích nào đúng, hợp lý hay những thần tích nào là phi lý. Bởi vì xét cho cùng thì những truyền thuyết đó cũng chỉ là nhằm linh thiêng, thiêng liêng hóa vị Mẫu này mà thôi; căn nguyên cũng là thể hiện tính nhân văn – một đặc điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu mà nhóm tác giả đã phân tích ở trên. Ngay cả trong danh xưng Chúa Xứ cũng đã thể hiện điều đó, Bà là người cai quản một xứ (vùng) cũng giống như Mẫu Địa trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ ở vùng Bắc Bộ. Hơn nữa, nói như Sơn Nam thì trong nhiều trường hợp, các giai thoại thường đàm lại chứa đựng sự thật, là sử liệu biến chất nhưng còn cái lõi tốt. Nó che giấu, bảo tồn những điều mà nhà cầm quyền phong kiến hay thực dân giấu diếm, không dám cho phổ biến trên sách vở, báo chí. Một thứ bia miệng lắm khi bền chắc hơn bia đá [4, tr.299]
(3) Đối với hệ thống thần linh ở vùng Nam Bộ, đặc biệt là khi nghiên cứu các nữ thần, chúng ta không chỉ thấy rõ tính đa dạng trong hệ thống các vị thần linh, mà xen kẽ vào đó còn là tính phức hợp. Tính phức hợp này được thể hiện thông qua sự giao thoa các hình tượng của các nữ thần, mà cụ thể hơn là những Mẫu trong công trình này đề cập đến. Sự phức tạp được thể hiện qua việc xác định nguồn gốc, danh xưng, sự tiếp biến và hỗn dung văn hóa ngay ở hình tượng của các Mẫu. Bà Chúa Xứ là một điển hình cho sự phức tạp ấy.
Nghiên cứu hình tượng của Bà Chúa Xứ, có lẽ trước tiên chúng ta cần làm rõ nguồn gốc của pho tượng. Ý kiến thứ nhất như tác giả đã đề cập ở phần “Nguồn gốc truyền thuyết” của Bà thì cho rằng, đây vốn là cốt tượng đã được Thoại Ngọc Hầu cho quân lính chở từ thành Trấn Tây về. Ý kiến này đúng hay sai, cần phải nghiên cứu thêm [5,tr.420]. Tác giả đồng ý với ý kiến thứ hai hơn rằng, đây vốn là tượng của một vị nam thần, mà cụ thể hơn chính là thần Vishnu – một trong ba vị thần tối cao trong Bàlamôn giáo. Đây là nhận định của nhà nghiên cứu người Pháp là ông Malleret khi đến đây để nghiên cứu vào năm 1941.
Về bức tượng hiện nay được thờ trong chính điện tại miếu Bà Chúa Xứ núi Sam ở thành phố Châu Đốc mà tác giả tiếp cận, tượng cao khoảng 1,25 mét và được làm bằng đá “son” (đá xanh đen) nguyên khối, được tạc trong tư thế ngồi nghĩ ngợi, dáng người vương giả, ngực nở, bụng hơi phệ. Tay trái để ở tư thế chống vào nách, tay phải để tự nhiên, bàn tay úp trên đầu gối phải; tượng được đặt trên bệ cao ở chính điện. “Chất liệu làm tượng bằng loại đá quý, có giá trị nghệ thuật cao, được tạc vào cuối thế kỷ VI đầu thế kỷ VII…” [3,tr.296].
Đó là xét về nguồn gốc bức tượng. Mặt khác, khi xem xét hình tượng của Bà Chúa Xứ dưới góc độ là một đối tượng thể hiện sự giao lưu và hỗn dung văn hóa trong tín ngưỡng của các tộc người, theo Ngô Đức Thịnh thì hình tượng Bà Chúa Xứ ở Nam Bộ đã thể hiện ba lớp văn hóa trong đó, bao gồm: Lớp văn hóa Chăm, lớp văn hóa Khmer và lớp văn hóa của người Việt. Theo đó thì lớp văn hóa Chăm được thể hiện thông qua hình tượng bà Po Inư Nagar[3](sau này là bà Thiên Yana Diễn Ngọc Phi – một hóa thân của nữ thần Po Inư Nagar khi mà lưu dân Việt đem theo tín ngưỡng thờ Mẫu ở Bắc Bộ di cư vào khu vực phía Nam); lớp văn hóa Khmer được biểu hiện qua hình tượng vị nữ thần Neang Khmau (Bà Đen); ngoài hai lớp văn hóa của Chăm và Khmer còn có lớp văn hóa Việt là vì trong cộng đồng người Việt khi di chuyển vào vùng đất này để định cư đã mang sẵn tâm thức thờ Mẫu ở vùng ngoài. Do vậy, khi di cư vào đây, cùng chung sống với nhau đã cho ra đời một người mẹ duy nhất trong tâm thức người Việt, đó chính là hình tượng Bà Chúa Xứ.
Với phương thức tạc tượng như vậy, không khó để thấy rằng đây không phải là mô – típ tạc tượng của người Việt. Như thế thì vấn đề được đặt ra là tại sao người Việt trong nhiều thế kỷ qua lại chấp nhận tôn thờ một pho tượng không rõ nguồn gốc hay lại cố tình Việt hóa vị nam thần ấy để biến thành một vị nữ thần thông qua các thao tác như: Khoác lên bộ trang phục của nữ chúa, trang điểm thật lộng lẫy với nhiều đồ trang sức sang trọng, quý phái nhằm biến vị Nam thần ấy thành nữ sao cho thật phù hợp với hình tượng một vị nữ thần. Thực tế, đây vốn là … tượng thần Vishnu nên có diện mạo và dáng vẻ của đàn ông rất lực lưỡng…”[3,tr.296]. Giải thích lý do này, theo quan điểm của tác giả thì do rằng trong tâm thức của người Việt đã có sẵn hình ảnh người mẹ. Mẹ là người mang lại cho con người sức khỏe, tài lộc và bình an. Trong hoàn cảnh đến với vùng đất mới đầy hoang vu, lại không chịu sự ràng buộc từ làng xã cổ truyền ở vùng ngoài, cộng thêm việc “gặp” được cộng đồng cư dân bản địa nơi đây, những lưu dân Việt đó muốn tự do sáng tạo trong lao động cũng như trong sinh hoạt tinh thần. Mặt khác, họ cũng muốn hòa hợp và chấp nhận những hình tượng Mẫu của người Chăm và người Khmer để “phủ” lên đó thứ tín ngưỡng thờ Mẫu ở quê hương. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến sự phức hợp trong hình tượng Bà Chúa Xứ ở vùng đất Nam Bộ.
Nhìn chung, mối quan hệ giữa việc giao lưu và hỗn dung văn hóa giữa ba cộng đồng người Việt – Chăm – Khmer trong hình tượng Chúa Xứ Thánh Mẫu là vô cùng phức tạp như chính Ngô Đức Thịnh đã gọi Ngài là “Mẫu thần đa văn hóa”. Tuy nhiên, có một thực tế rằng, linh tượng của Bà vô cùng linh thiêng. Sự linh thiêng đó đã thể hiện thông qua câu đối:
Cầu tất ứng, thí tất linh, mộng trung chỉ thị
Xiêm khả kính, Thanh khả mộ, ý ngoại nan lường.
(4) “… gần như hầu hết làng xã ở Nam Bộ đều có miễu (miếu) Bà Chúa Xứ, và trong khuôn viên đình, chùa cũng đều có miễu thờ vị Nữ thần này bên cạnh miếu Ngũ hành, miếu Thổ địa” [1,224]. Thực tế đó đã phản ánh tình trạng một thứ tín ngưỡng phái sinh của tín ngưỡng thờ Mẫu là dạng thức thờ Bà Chúa Xứ. Chính dạng thức thờ Bà Chúa Xứ đã chi phối mạnh mẽ, và gần như toàn bộ đời sống tâm linh của cộng đồng dân cư đã và đang sinh sống ở khu vực Nam Bộ hiện nay.
            Các cơ sở thờ tự có thờ Bà có mật độ dày đặc ở khu vực Nam Bộ này, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long. Theo thống kê từ năm 2002, ở Tiền Giang có 233 miếu thờ các vị thần thì trong đó có 180 miếu có thờ Bà; ở Bến Tre có 72 miếu thờ Bà (trong đó riêng huyện Ba Tri là 24 miếu, huyện Mỏ Cày có 13 miếu); ở Bình Dương có 47 miếu thờ… Đó là chưa kể việc thờ Bà riêng lẻ trong phạm vi những hộ gia đình riêng lẻ [39, tr.275]. Hai cơ sở thờ tự hiện nay rất nổi tiếng của Bà Chúa Xứ, có ảnh hưởng ra khỏi phạm vi của một thôn ấp và được xem như là hai trung tâm thờ Bà ở khu vực Nam Bộ chính là miếu Bà Chúa Xứ ở núi Sam (thuộc thành phố Châu Đốc của tỉnh An Giang) và miếu Bà ở Gò Tháp (tỉnh Đồng Tháp).
Miếu Bà Chúa Xứ hiện nay nằm ở dưới chân núi Sam, thuộc phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc của tỉnh An Giang. Lúc ban đầu, khi mới được xây dựng, miếu được cất bằng tre lá khá đơn sơ. Miếu nằm trên vùng đất trũng, lưng quay về vách núi, chính điện nhìn ra cánh đồng bát ngát. Sau nhiều lần trùng tu, đặc biệt là những năm 1962, 1965 và 1966, miếu Bà ngày càng được mở rộng và khang trang hơn. Đến mãi năm 1870, miếu được xây dựng lại và lợp ngói, thu hút nhiều khách thập phương đến chiêm bái. Đến năm 1960, được trùng tu bằng đá miếng và cho lợp ngói âm dương. Dáng vẻ hiện nay của công trình này là thành quả của đợt trùng tu cuối cùng tính đến hiện nay vào các năm 1972 – 1976. Trong giai đoạn 1972 này, miếu đã được xây dựng đồ sộ và lộng lẫy theo lối kiến trúc cổ kính của phương Đông. Việc xây dựng này được thực hiện theo đồ án thiết kế của hai kiến trúc sư là ông Huỳnh Kim Mãng và ông Nguyễn Bá Lăng, nhưng xây dựng dở dang. Đến mãi năm 1995, Ban Quản trị lăng miếu núi Sam mới tiếp tục xây dựng phần còn lại.
            Về tổng quan, miếu Bà Chúa Xứ núi Sam là một toà tháp với lối kiến trúc được xây dựng theo hình chữ “Quốc” (國) có dạng hình bông sen nở, mái tam cấp ba tầng lầu, lợp ngói màu xanh hài hòa với kiến trúc. Khuôn viên của miếu rộng khoảng 3000 mét vuông, bao gồm: Chính điện, nhà võ ca, các nhà trưng bày lễ vật và khu nhà làm việc của Ban Quản lý Di tích. Bên trong lát đá hoa, gạch bông nhập từ nước ngoài. Các khung và cửa đều được làm bằng gỗ quý, được chạm trổ rất công phu, mang tính nghệ thuật cao.
Chính điện cao rộng, thoáng khí; nơi cao nhất ở trung tâm chính điện đặt pho tượng của Bà mặc áo bào thêu rồng phượng kiểu vua chúa, đầu đội mão có đính kim tuyến sáng lấp lánh. Tượng Bà ngồi ở giữa theo tư thế mà tác giả đã đề cập khi nhắc đến nguồn gốc của pho tượng ở phần trên. Hai bên có đôi hạc trắng đứng hầu để tạo sự linh thiêng nơi không gian thờ tự. Bên trái (nhìn theo hướng từ chính điện nhìn ra) là bàn thờ Cậu, bên phải là bàn thờ Cô. Ngoài ra, cũng như những miếu và đình thần khác ở Nam Bộ, hai bên chính điện là ban thờ Tiền hiền khai khẩn và Hậu hiền khai cơ. Phía trước thiết kế một bàn thờ Hội đồng, trên có đặt một cái lư hương, hai bên có đôi phượng hoàng dang cánh. Ở phía ngoài có một hương án làm nơi đặt bài vị của Thoại Ngọc Hầu và hai người vợ của ông là bà Châu Thị Tế và Trương Thị Miệt trong những ngày diễn ra lễ hội vía Bà. Ngoài ra, trên các trụ cột trong chính điện còn treo nhiều câu đối bằng chữ Hán, tất cả đều mang ý nghĩa ca ngợi công đức của Bà. Ở phía trên chính điện có treo nhiều bảng viết bằng chữ Hán như: “Chúa Xứ Thánh Mẫu”“Vị quốc vị dân”“Thần linh hích trạc”
Trong hệ thống điện thờ, ngoài pho tượng Bà là quan trọng nhất, tác giả đã phân tích ở trên, việc thờ Cậu và Cô cũng là một phần quan trọng chúng ta cần lưu tâm khi nghiên cứu về hệ thống điện thờ trong miếu Bà. Như chúng ta đã biết, hình tượng Cậu được thờ trong điện thờ chung với Bà Chúa Xứ vốn là một linga, tức là sinh thực khí nam – là một đối tượng được thờ trong tín ngưỡng phồn thực của người Việt hay còn là biểu tượng của thần Civa trong Bàlamôn giáo. Học giả Nguyễn Quang Lê đã nhận xét về linh tượng bằng đá này như sau: “… bên trái là bàn thờ Cậu đặt một linh tượng lingar bằng đá, có phủ lên một tấm vải đỏ; còn bên phải là bàn thờ Cô lại rất trùng hợp với truyền thuyết về bà Thiên Yana ở Tháp Bà Nha Trang rằng, bà đã phiêu bạt đến Bắc hải, rồi kết duyên với thái tử nước Tàu, sinh được hai người con: một trai (Cậu) tên là Trí, và một gái (Cô) tên là Quý[4]” [3,tr.297]. Qua nhận định đó, ta thấy được rằng hình tượng Bà Chúa Xứ chính là biến thể của Thánh Mẫu Yana ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ. Khi vào vùng đất này, hình tượng của vị Mẫu này đã trở nên đa dạng hơn khi đã diễn ra sự tiếp xúc văn hóa.
  • Trong không gian vùng đất Tây Nam Bộ, lễ hội vía Bà Chúa Xứ hằng năm có thể được xem là lễ hội có quy mô lớn nhất trong khu vực. Điều này cũng dễ hiểu khi mà như tác giả đã đề cập, Bà Chúa Xứ đã trở thành đối tượng thờ cúng chính của một “tín ngưỡng” chính là “tín ngưỡng” thờ Bà Chúa Xứ. Lễ vía Bà được tổ chức tương tự như lễ hội Kỳ Yên[5] – một hình thức lễ hội rất phổ biến tại các đình làng ở Nam Bộ.
            Về đại thể, diễn trình lễ vía Bà Chúa Xứ hằng năm tại miếu Bà ở thành phố Châu Đốc có thể được sơ đồ hóa bao gồm những bước sau:
Sơ đồ:Diễn trình lễ hội vía Bà tại miếu Bà Chúa Xứ núi Sam, thành phô Châu Đốc
(Nguồn: Tác giảthiết lập)
            Thời gian diễn ra lễ hội là từ đêm ngày 23 đến ngày 27 tháng 4 Âm lịch hằng năm. Có hai giả thuyết giải thích lý do tại sao chọn những ngày này làm lễ vía Bà. Hai giả thuyết này khác nhau phụ thuộc vào vấn đề sự ra đời của miếu Bà[6]. Thứ nhất, các cụ cho rằng ngày 25 chính là khoảng thời gian mà những người dân làng Vĩnh Tế ngày trước đã đưa tượng Bà từ đỉnh núi xuống an ngự tại miếu (đây là ngày chính tế giỗ Bà). Còn giả thuyết thứ hai thì cho rằng, miếu Bà là do vợ chồng Thoại Ngọc Hầu và bà Châu Thị Tế trùng tu vào những ngày này nên người dân địa phương đã chọn khoảng thời gian này để làm lễ vía Bà – đồng thời cũng xem như một hình thức ghi nhớ công ơn của vị danh tướng đã có công rất nhiều trong việc phát triển khu vực Châu Đốc, An Giang này – Thoại Ngọc Hầu.
            Lễ mộc dục, hay còn gọi là “lễ tắm bà” được tổ chức vào lúc 24 giờ đêm ngày 23, rạng sáng ngày 24 tháng 4 Âm lịch. Lễ mộc dục có nghĩa là lau bụi bậm trên pho tượng Bà, đồng thời người ta cũng tiến hành thay áo, mũ cho Bà. Trước tiên là cởi mão, khăn đội trên đầu, rồi sau đó là đai áo, áo ngoài, áo trong để lộ toàn thân pho tượng bằng đá sa thạch ở tư thế ngồi. Chủ trì buổi lễ này là một phụ nữ đứng tuổi và có uy tín với dân làng. Nước tắm Bà là một loại nước thơm nấu bằng nước mưa hứng ngoài trời với nhiều loại hoa thơm và có thêm nước hoa hàng hiệu thơm ngát. Sau khi đã tiến hành “tắm Bà” xong, một bộ quần áo đẹp nhất dâng cúng trong kỳ lễ hội được khoác lên tượng, thắt dây đai áo và các bộ phận khác, và cuối cùng là đội mão lên đầu tượng Bà. Toàn bộ “lễ tắm Bà” kéo dài trong khoảng một giờ; sau đó, mọi người được tự do chiêm bái. Cũng cần nói thêm rằng, toàn bộ quá trình mộc dục cho Bà đều được thực hiện sau bức màn che, nhưng có đến hàng nghìn người chen chúc nhau đến để đứng ngoài vòng rào chính điện để xem[7].
            Sau lễ mộc dục chính là lễ thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu về miếu Bà. Lễ này được tiến hành vào lúc 15 giờ ngày 24; tại miếu Bà, tất cả các bô lão của làng Vĩnh Tế cùng Ban Quản trị lăng miếu lễ phục chỉnh tề (áo dài khăn đóng – lễ phục cổ truyền) tập trung đông đủ và xếp thành hai hàng hai bên tượng Bà để chuẩn bị sang lăng Thoại Ngọc Hầu dự lễ thỉnh sắc. Dẫn đầu đoàn thỉnh sắc là đội múa lân, theo sau là ông Hương lễ bưng khay trầu rượu, học trò lễ đi hai bên, rồi đến hai ông Chánh tế, ba ông Bồi tế, ba ông Chấp kích cùng các bô lão và đại diện dân làng Vĩnh Tế tiếp nối đi theo phía sau. Khi đoàn đến trước lăng Thoại Ngọc Hầu thì các bô lão lần lượt vào dâng hương và xin phép thỉnh bài vị. Sau đó, đoàn thỉnh bốn sắc (bài vị) lên long đình để về miếu Bà. Bốn bài vị đó bao gồm: Bài vị của Nguyễn Văn Thoại, bài vị của bà Chánh phẩm Châu Thị Tế, bài vị của bà Nhị phẩm Trương Thị Miệt và bài vị của Hội đồng. Khi các bài vị được thỉnh về và an vị trong ngôi chính điện, Ban Quản trị của miếu Bà dâng hương thỉnh an và phần lễ thỉnh sắc kết thúc. Tuy kết thúc nhưng hàng nghìn người dân từ khắp nơi kéo về dự lễ liên tục cho đến tận đêm khuya và thậm chí là kéo dài cho đến sáng ngày hôm sau. Do vậy, ngày 25 được xem là đông vui nhất trong lễ hội vía Bà – ngày lễ chính của cả mùa lễ hội.
            Lễ túc yết được bắt đầu vào lúc 0 giờ ngày 25, rạng sáng ngày 26 tháng 4 Âm lịch. Tất cả các bô lão và Ban Quản trị khu lăng miếu lễ phục chỉnh tề, đứng xếp hàng hai bên tượng Bà. Vật cúng gồm có: Một con heo trắng đã được cạo lông sạch sẽ, chưa nấu chín; một đĩa đựng một ít huyết có chút lông (mao huyết); một mâm xôi; một mâm trái cây, một mâm trầu cau và một đĩa gạo muối. Toàn bộ lễ vật được bày trên bàn trước tượng Bà. “Vào lễ cúng, ông chánh bái và các vị bô lão đến niệm hương trước bàn thờ. Kế đến là các phần khởi cỗ. Sau khi đánh ba hồi trống và ba hồi chiêng, nhạc lễ bắt đầu nổi lên là lễ dâng hương, chúc tửu, hiến trà… Một người trong Ban quản trị lăng miếu đọc văn tế. Dứt bài văn tế, ông chánh bái đốt văn bản này và một ít giấy vàng bạc; heo cúng trên bàn thờ được lật ngửa ra trước và khiêng đi, phần cúng túc yết đã xong” [6,tr.290-291].
            Sau khi lễ túc yết kết thúc thì diễn ra lễ xây chầu. Lễ vật dâng cúng cũng là một con heo trắng để nguyên con, một mâm xôi và một mâm cỗ đủ món. Tại gian võ ca, những người tham dự ăn mặc chỉnh tề và xếp thành hai hàng. Sai khi ông Chánh tế vái xong thì lấy roi chầu vác lên vai rồi hô lớn “Phụng mạng”. Sau đó, ông bước ra đặt roi chầu lên khay; sau đó là đến các lễ dâng hương, dâng rượu và trà. Phía bên trái bàn thờ có một tô nước và một cành dương liễu. Ông Chánh tế ca công cầm cành dương liễu đưa ngang trán và khấn vái rồi cầm cành dương liễu nhúng vô tô nước và vẩy nước ra xung quanh; vừa vẩy vừa đọc to câu thần chú:
            “Nhất xái thiên thanh” (Thứ nhất, vẩy nước lên trời mong cho trời luôn thanh bình, mưa thuạn gió hòa);
            “Nhị xái địa ninh” (Thứ hai, vẩy nước xuống đất, cầu cho đất thêm tươi tốt, mùa màng bội thu);
            “Tam xái nhơn trường” (Thứ ba, vẩy nước cho loài người sống trường thọ);
            “Tứ xái quỷ diệt hình” (Thứ tư, vẩy nước vào loài quỷ dữ cho chúng bị tiêu diệt).
            Đọc xong câu thần chú, ông Chánh bái ca công đặt tô nước, cành dương liễu về lại bàn thờ; sau đó đánh ba hồi trống và xướng “Ca công tiếp giá”, đoàn hát bội “Dạ” một tiếng thật to. Ngay lập tức, đoàn ca công hát bội nổi chiêng trống và chương trình hát bội bắt đầu. “… Tất cả các vở tuồng hát đều là tuồng hay, có ý nghĩa sâu xa, nhưng trong năm buổi diễn bắt buộc phải có vở Thứ ba San Hậu, đào kép phải hát đúng nguyên bản không được tùy tiện sửa đổi…” [3,tr.306].
            Tiếp theo là lễ chính tế. Lễ được tổ chức trọng thể vào lúc 4 giờ sáng ngày 27 tháng 4 Âm lịch. Chương trình tế lễ này tương tự như nghi lễ cúng túc yết. Sau khi tế lễ chính xong thì có phần lễ tạ Mẫu và các vị thần linh; sau đó chuẩn bị cử hành lễ hồi sắc.
            Lễ hồi sắc được cử hành vào buổi chiều ngày 27 (15 giờ). “Ban Quản trị lại tề tựu đông đủ, áo dài khăn đóng (mặc lễ phục cổ truyền) chỉnh tề làm lễ Tôn Vương. Khi đó, ông Chánh tế ca công nhận hàm ấn và gươm lệnh của Hoàng tử trong vở hát bội Thứ ba San Hậu dâng lên bàn thờ bà Chúa Xứ. Sau đó, ông đốt văn xây chầu và chấm dứt phần hát bộ. Đến khi làm lễ hồi sắc thì chủ lễ thỉnh bài vị Thoại Ngọc Hầu, bài vị hai vị phu nhân và bài vị Hội đồng đưa lên long đình. Rồi đoàn đưa sắc dàn đội hình rước sắc hồi lăng Thoại Ngọc Hầu theo thứ tự giống như rước sắc về miếu hôm mở hội… Nghi lễ hồi sắc là nghi lễ cuối cùng kết thúc lễ hội vía bà Chúa Xứ núi Sam” [3,tr.307].
            Nói tóm lại, Bà Chúa Xứ là một biểu hiện cụ thể của tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung. Sự hiện sinh của vị Mẫu thần này là biểu hiện to lớn về khát vọng tìm kiếm sự che chở, bảo bọc cho cuộc sống bình yên của người dân địa phương. Nhiều giá trị văn hóa ẩn chứa nội tại trong tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ là cơ sở để tín ngưỡng này đồng hành chung với đoạn trường lịch sử mở rộng lãnh thổ của dân tộc./.

Tg: Huỳnh Thiệu Phong – nghiencuulichsu.com

 

 

 

Tài liệu tham khảo:

  1. Nguyễn Hữu Hiếu (2005), Diễn trình văn hóa đồng bằng sông Cửu Long, NXB Thời đại.
  2. Trịnh Bửu Hoài (2013), Địa chí du lịch An Giang, Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch An Giang.
  3. Nguyễn Quang Lê (2014), Bản sắc văn hóa qua lễ hội truyền thống người Việt, NXB Khoa học Xã hội.
  4. Sơn Nam (2009), Đình miếu & lễ hội dân gian miền Nam (Biên khảo), Nxb Trẻ.
  5. Nhiều tác giả (2013), Văn hóa một số vùng miền ở Việt Nam, NXB Thời đại.
  6. Ngô Đức Thịnh (2009), Đạo Mẫu Việt Nam (tập 1), NXB Tôn giáo.
[1]: Một số tài liệu mà tác giả đã tiếp cận có sử dụng thuật ngữ “tín ngưỡng Bà Chúa Xứ” có thể kể đến như: “Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ” – Trần Ngọc Thêm (tr222) hay như bài viết “Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ” của Nguyễn Minh San trong cuốn “Văn hóa một số vùng miền ở Việt Nam” (tr.417)…
[2]: Về cách lý giải địa danh núi Sam, Lê Trung Hoa trong công trình “Từ điển từ nguyên địa danh Việt Nam” cho rằng gọi là núi Sam vì ngọn núi này có hình giống con Sam [tr.341].
[3]: Po Inư Nagar là vị nữ thần kết hợp giữ nữ thần Chăm bản địa với nữ thần Uma (vợ của thần Civa). Đây là vị nữ thần được người dân Chămpa tôn sùng là Bà mẹ Xứ sở.
[4]: Về phần này, có một số tài liệu cho rằng hai người con của Nữ thần Po Inư Nagar (hay Thiên Yana) sau này tên Tài và Quý đều là Cậu (tức là hai người con trai chứ không phải một trai, một gái).
[5]: Lễ Kỳ Yên mang ý nghĩa cầu an, tế thần Thành Hoàng làng lớn nhất  trong năm tại các đình thần ở Nam Bộ. Đây là dịp để cả làng họp mặt, vui chơi nhằm thắt chặt tính cộng đồng. Đây thực sự là một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa dân gian – thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” cần được bảo tồn và phát huy.
[6]: Về vấn đề thời điểm ra đời của miếu Bà, tác giả Nguyễn Minh San trong bài viết của mình “Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ” (1992) đã có phân tích rất kỹ về những quan điểm nhận định thời điểm xuất hiện miếu Bà. Đó là miếu Bà xuất hiện trước khi người Việt đến khai phá hay miếu là do Thoại Ngọc Hầu xây dựng. Trong khuôn khổ công trình, tác giả chỉ dừng lại ở việc nêu ra những giả thuyết để lý giải việc chọn khoảng thời gian 23 -27/4 Âm lịch để làm lễ vía Bà.
[7]: Xung quanh việc có nhiều người “cả gan” dám nhìn trộm ngọc thể của Bà thì bị trừng phạt là rất nhiều những câu chuyện ly kỳ, thể hiện sự “hiển linh” của Bà.