TẢN MẠN
Tiếng lóng vốn là tiếng của…vỉa hè, chợ búa, là thứ tiếng của đám đông. Có lẽ chỉ các bậc tu hành mới không có (chứ không phải các vị không dùng) Một linh mục đã từng hỏi người viết “Có ghệ chưa?”) tiếng lóng chuyên dùng .
Thoạt kỳ thủy đó là tiếng của một giới nào đó ( ăn chơi, mánh mung, ma túy…) , là con đẻ của một ngoại cảnh nào đó, không phải “tiếng lòng” tức không phải của nội tâm, càng không là ngôn ngữ của tư duy .Định nghĩa thật khó, cách giản tiện nhất là… nói tiếng lóng.
Sài Gòn là đất trẻ, nhiều dân tứ xứ (Trung Nam Bắc chen vai thích cánh với Hoa, Ấn, Tây, Mỹ v.v. Chủ yếu là thành phố công thương nghiệp tạo thành lớp cư dân linh hoạt, nhiều sắc thái, cá tính hơi “bốc”, trọng nghĩa khí mang tính giang hồ, thích sống thoáng, khoái hoạt. Hơn nhiều nơi khác, sức ma sát ở đây rất mạnh, càng mạnh càng bén nhạy trở thành đắc địa của tiếng lóng. Từ Sài Gòn, tiếng lóng lan toả ra vùng…
Tiếng lóng sinh ra rất nhanh từ một giới nào đó và đời tiếng lóng cũng ngắn. Khi lính Mỹ ào ạt sang miền Nam, chập choạng tối là những “cây than” (Mỹ đen) hay lảng vảng ở các khu vực bến xe hay những khu bình dân. Đám dắt mối, ăn xin, du thủ du thực chế ngay ra OK Salem, tức tiếng bồi cộng với ngôn ngữ hình thể, nói bằng miệng thì ít mà bằng tay thì nhiều làm ngôn ngữ tiếp thị món gà móng đỏ.
Dân chơi rủ nhau xuống xóm phải tránh bị bể ống khói,( hoặc uống café đen tiểu café sữa). Ngày nay việc dùng cái bao cao su được tuyên truyền rộng rãi trên pa nô, báo đài và còn có cả việc các thanh niên đi phát nó trong các cộng đồng. cái vật này thời trước ở Sài Gòn thường chỉ được hiểu rộng rãi là phương tiện ngừa bệnh của dân ăn chơi,họ gọi là “áo mưa’. Cái dụng cụ dùng cả lúc nắng đổ lửa này đang đắc thời đắc thế thì bỗng… thân bại danh liệt. Số là vào năm 1963, khi vị đại sứ nước ngoài cạnh chính quyền Sài Gòn sang nhậm chức thì không chậm trễ, dân chơi lúc xuống xóm đã có ông đại sứ đi kèm ! Chả là vì ngài đại sứ họ tên là Henri Cabot Lodge , trong đó capote theo tiếng
Pháp là cái áo mưa… thứ thật. Dân ăn chơi không phải ai cũng sòng phẳng, nhiều kẻ hay tìm bạn bò mộng để bắt địa. Ông chủ quán cà phê La Pagode nếu giờ còn sống liệu còn thắc mắc vì sao có mấy chàng sinh viên ngày nào cũng kéo đến kêu cà phê lát rồi bỏ đi, chỉ có một người ngồi lại…đọc sách cả tiếng đồng hồ.? Không đâu thưa ông chủ quán, ngồi làm va li chờ bạn đi kiếm tiền đến …chuộc đó! Nhớ hồi 56-57 gì đó, có cô ca sĩ nổi tiếng, một lần đi chơi… Nhà Bè (hồi ấy còn rất hoang vắng ) hai người làm gì trong xe hơi chẳng biết nhưng bất ngờ bị tuần cảnh xét hỏi, bèn nói em với anh đi …ăn chè, dù tại Nhà Bè thuở đó mua cả chỉ vàng cũng không có thứ gọi là chè ấy. Thế là trong từ điển tiếng lóng, ăn chè ra đời, dùng làm gì thì cứ thử ắt biết.
Dân chơi cầu ba cẳng khi đã ngồi với nhau thế nào cũng phải chăm phần chăm( 100%) . Số là thời chiến tranh, quân đội Sài Gòn thường có lệnh cấm lính xuất trại, ngoài cổng treo tấm bảng “cấm trại 100%”. Không được ra phố, ở lại trại 100% thì…100% rất “đả” thế là con số này sống mãi với thời gian. Nhậu nhiều lỡ mà lên dầu sống khẩn cấp,không kịp chạy ra ngoài bèn cứ ngồi tại chỗ cho chó ăn chè.. Sang tới giới công tư chức, anh nào từ phòng sếp ra mặt hơi bị không vui thì biết anh ta được mời lên uống trà, hoặc… uống cà phê đen, làm đèn cầy (đứng ngay đơ) cho sếp “xát xà bông” .
Ra chợ Bến Thành, những chú lính Yankee đụng ngay đám ăn xin lóc nhóc, một chữ Việt bẻ đôi cũng không biết nhưng tiếng Anh bồi, phương tiện hành nghề thì đám này xài nhanh như gió, kiểu “nô bà ba, nô mà ma, ghi vờ mi, oăn đồ la”, có nghĩa là “không cha không mẹ, cho tôi một đồng!”. Tuy loại ngôn ngữ này không hề có trong bất cứ thứ từ điển nào nhưng “than” nghe là hiểu, không chết liền!
Đất nước thống nhất, người Sài Gòn làm quen với những xế điếc (xe đạp), xế nổ ( xe máy), đánh quả (phi vụ làm ăn), con phe (dân mánh), một vé (100 đô), bôi trơn (đút lót), mắt thứ hai tai thứ bảy, phao v.v. đã trở nên quen thuộc… dĩ nhiên rất nhanh , tiếng lóng mà.
Tiếng lóng sinh nhanh mà già cỗi cũng nhanh cứ như hoa phù dung sớm nở tối tàn. Hoàn cảnh sống khác đi lập tức tiếng lóng bèn đi trước đón đầu thật nhanh cứ như hình với bóng. “Chân dài” không chỉ là cặp giò có số đo hơi bị nhiều, mà là đối tác của đại gia trong quan hệ bên tiền bên sắc. Biết chết liền là cách nói đa dạng trong mọi lãnh vực, phủ định cũng được mà khẳng định cũng không sao. “Em đẹp không?, Đẹp chết liền (phủ định, chọc), Không chết liền (khẳng định, nịnh) đều không gây mất lòng cũng không gây cho người đẹp yên tâm là mình đẹp, bởi nó mang tính cách đùa bỡn, sao cũng được! ”Bài này hay không?”, Hay chết liền; Món này ngon chứ?, Ngon chết liền…
Ngày nay, có hai thứ không phải ngôn ngữ nhưng rất… biểu cảm: Cục gạch cắm miếng giấy (chỗ bán xăng lẻ) và cái phong bì, không biết có nên cho chúng vào từ điển tiếng lóng thông dụng hay không?
Điều ngày càng được khẳng định là, nhà báo Sài Gòn lại cũng là tác giả của một số tiếng lóng rất hiện đại. Chính họ còn là đường truyền hiệu quả cho tiếng lóng. “Chọi” hiện đang được một số tờ báo sử dụng, ý chỉ 1 thí sinh đại học phải loại bao nhiêu thí sinh khác để có tên trong danh sách trúng tuyển! Nghe đầy bạo lực như chọi gà, chọi trâu, chọi dế…nhưng nghe miết thành…gần quen tai! Mấy năm nay đường phố Sài Gòn bị hết ngành này đến ngành khác băm cho nát. Ở những vết băm người ta dựng lên những tấm tôn mỏng manh xiêu vẹo, thế là lô cốt ra đời! Cùng với lô cốt là những hố tử thần chỉ thị việc các ông con nhà họ “Đào” đào lên để vậy chờ sẵn người tận số đi
qua! Botay.com thì còn gì hơn là cách than trời về những việc làm của một số quan chức thuộc loại đáng chào thua hoặc hết biết? Cũng từ các tờ báo, nhất là báo trào phúng, những tiếng lủm, nhím nghe khá gợi hình của một sự thô bỉ nhẫn tâm ra đời khi có những quan chức cắt xén tiền, hàng cứu trợ nạn nhân thiên tai. Cùng với nó, Biết ( ngon, dở, hay, đẹp…) chết liền! là một cụm từ tiếng lóng…nói trong trường hợp nào cũng được, miễn sao tỏ được ý phủ định của người nói trước người hỏi. Hỏi “Ngon gì mà ngon” hay &”Dở ẹc”;, đáp ‘Dở chết liền!”…”Đẹp không”, nếu là
nịnh thì “Xấu chết liền!”…
Tiếng lóng là tiếng chợ búa nhiều tính thự dụng, ra đời trong một bối cảnh nhất định, mà cuộc sống thì như một dòng chảy cho nên khai sinh nhanh thì tiếng lóng cũng không sống được lâu. Hai tiếng OK Salem của những tên ma cô dẫn gái tiếp thị với lính Mỹ ở Sài Gòn góc tối nào cũng có thể có, nhưng nó đã nhanh chóng bị đào thải theo chân những chú Yankee khi họ rời khỏi đây. Tiếng lóng là công cụ nhất thời như hoa phù dung sớm nở tối tàn vậy.
Nhắc đến tiếng lóng mà quên nhà văn quá cố Nguyên Hồng là một sự thất lễ. Trước năm 45 cụ đã lên đời loại tiếng vỉa hè này, đưa nó vào văn chương hẳn hoi. Tiểu thuyết “Bỉ vỏ”- nội cái nhan đề đã là một tiếng lóng ( chỉ người đàn bà móc túi)- của cụ đọc thật “bá chấy”. Lần đầu tiên người đọc được nghe tiếng của giới giang hồ đất cảng Hải Phòng : Mõi ( móc túi); kỳ bẽo (cờ bạc); sò quỷnh (người nhà quê) ; đông địa (nhiều tiền) v.v. Một dân móc túi thuộc loại trinh sát theo dõi một người nhà quê có vẻ có tiền, khi thấy ông ta vào quán cơm bụi, đã báo cho đồng bọn biết một cách gần như công khai :“Sò quỷnh đông địa tranh vòm” ( gã nhà quê lắm tiền vừa vào quán)! Trong khi chưa tìm ra ai khác nhà văn Nguyên Hồng, xin cứ tôn xưng cụ là …vua tiếng lóng. Vì nhân vật của cụ nói nguyên một câu bằng tiếng lóng, còn đám hậu sinh chỉ đệm được vài từ là cùng.
Tiếng lóng vốn là tiếng của…vỉa hè, chợ búa, là thứ tiếng của đám đông. Có lẽ chỉ các bậc tu hành mới không có (chứ không phải các vị không dùng) Một linh mục đã từng hỏi người viết “Có ghệ chưa?”) tiếng lóng chuyên dùng .
Thoạt kỳ thủy đó là tiếng của một giới nào đó ( ăn chơi, mánh mung, ma túy…) , là con đẻ của một ngoại cảnh nào đó, không phải “tiếng lòng” tức không phải của nội tâm, càng không là ngôn ngữ của tư duy .Định nghĩa thật khó, cách giản tiện nhất là… nói tiếng lóng.
Sài Gòn là đất trẻ, nhiều dân tứ xứ (Trung Nam Bắc chen vai thích cánh với Hoa, Ấn, Tây, Mỹ v.v. Chủ yếu là thành phố công thương nghiệp tạo thành lớp cư dân linh hoạt, nhiều sắc thái, cá tính hơi “bốc”, trọng nghĩa khí mang tính giang hồ, thích sống thoáng, khoái hoạt. Hơn nhiều nơi khác, sức ma sát ở đây rất mạnh, càng mạnh càng bén nhạy trở thành đắc địa của tiếng lóng. Từ Sài Gòn, tiếng lóng lan toả ra vùng…
Tiếng lóng sinh ra rất nhanh từ một giới nào đó và đời tiếng lóng cũng ngắn. Khi lính Mỹ ào ạt sang miền Nam, chập choạng tối là những “cây than” (Mỹ đen) hay lảng vảng ở các khu vực bến xe hay những khu bình dân. Đám dắt mối, ăn xin, du thủ du thực chế ngay ra OK Salem, tức tiếng bồi cộng với ngôn ngữ hình thể, nói bằng miệng thì ít mà bằng tay thì nhiều làm ngôn ngữ tiếp thị món gà móng đỏ.
Dân chơi rủ nhau xuống xóm phải tránh bị bể ống khói,( hoặc uống café đen tiểu café sữa). Ngày nay việc dùng cái bao cao su được tuyên truyền rộng rãi trên pa nô, báo đài và còn có cả việc các thanh niên đi phát nó trong các cộng đồng. cái vật này thời trước ở Sài Gòn thường chỉ được hiểu rộng rãi là phương tiện ngừa bệnh của dân ăn chơi,họ gọi là “áo mưa’. Cái dụng cụ dùng cả lúc nắng đổ lửa này đang đắc thời đắc thế thì bỗng… thân bại danh liệt. Số là vào năm 1963, khi vị đại sứ nước ngoài cạnh chính quyền Sài Gòn sang nhậm chức thì không chậm trễ, dân chơi lúc xuống xóm đã có ông đại sứ đi kèm ! Chả là vì ngài đại sứ họ tên là Henri Cabot Lodge , trong đó capote theo tiếng
Pháp là cái áo mưa… thứ thật. Dân ăn chơi không phải ai cũng sòng phẳng, nhiều kẻ hay tìm bạn bò mộng để bắt địa. Ông chủ quán cà phê La Pagode nếu giờ còn sống liệu còn thắc mắc vì sao có mấy chàng sinh viên ngày nào cũng kéo đến kêu cà phê lát rồi bỏ đi, chỉ có một người ngồi lại…đọc sách cả tiếng đồng hồ.? Không đâu thưa ông chủ quán, ngồi làm va li chờ bạn đi kiếm tiền đến …chuộc đó! Nhớ hồi 56-57 gì đó, có cô ca sĩ nổi tiếng, một lần đi chơi… Nhà Bè (hồi ấy còn rất hoang vắng ) hai người làm gì trong xe hơi chẳng biết nhưng bất ngờ bị tuần cảnh xét hỏi, bèn nói em với anh đi …ăn chè, dù tại Nhà Bè thuở đó mua cả chỉ vàng cũng không có thứ gọi là chè ấy. Thế là trong từ điển tiếng lóng, ăn chè ra đời, dùng làm gì thì cứ thử ắt biết.
Dân chơi cầu ba cẳng khi đã ngồi với nhau thế nào cũng phải chăm phần chăm( 100%) . Số là thời chiến tranh, quân đội Sài Gòn thường có lệnh cấm lính xuất trại, ngoài cổng treo tấm bảng “cấm trại 100%”. Không được ra phố, ở lại trại 100% thì…100% rất “đả” thế là con số này sống mãi với thời gian. Nhậu nhiều lỡ mà lên dầu sống khẩn cấp,không kịp chạy ra ngoài bèn cứ ngồi tại chỗ cho chó ăn chè.. Sang tới giới công tư chức, anh nào từ phòng sếp ra mặt hơi bị không vui thì biết anh ta được mời lên uống trà, hoặc… uống cà phê đen, làm đèn cầy (đứng ngay đơ) cho sếp “xát xà bông” .
Ra chợ Bến Thành, những chú lính Yankee đụng ngay đám ăn xin lóc nhóc, một chữ Việt bẻ đôi cũng không biết nhưng tiếng Anh bồi, phương tiện hành nghề thì đám này xài nhanh như gió, kiểu “nô bà ba, nô mà ma, ghi vờ mi, oăn đồ la”, có nghĩa là “không cha không mẹ, cho tôi một đồng!”. Tuy loại ngôn ngữ này không hề có trong bất cứ thứ từ điển nào nhưng “than” nghe là hiểu, không chết liền!
Đất nước thống nhất, người Sài Gòn làm quen với những xế điếc (xe đạp), xế nổ ( xe máy), đánh quả (phi vụ làm ăn), con phe (dân mánh), một vé (100 đô), bôi trơn (đút lót), mắt thứ hai tai thứ bảy, phao v.v. đã trở nên quen thuộc… dĩ nhiên rất nhanh , tiếng lóng mà.
Tiếng lóng sinh nhanh mà già cỗi cũng nhanh cứ như hoa phù dung sớm nở tối tàn. Hoàn cảnh sống khác đi lập tức tiếng lóng bèn đi trước đón đầu thật nhanh cứ như hình với bóng. “Chân dài” không chỉ là cặp giò có số đo hơi bị nhiều, mà là đối tác của đại gia trong quan hệ bên tiền bên sắc. Biết chết liền là cách nói đa dạng trong mọi lãnh vực, phủ định cũng được mà khẳng định cũng không sao. “Em đẹp không?, Đẹp chết liền (phủ định, chọc), Không chết liền (khẳng định, nịnh) đều không gây mất lòng cũng không gây cho người đẹp yên tâm là mình đẹp, bởi nó mang tính cách đùa bỡn, sao cũng được! ”Bài này hay không?”, Hay chết liền; Món này ngon chứ?, Ngon chết liền…
Ngày nay, có hai thứ không phải ngôn ngữ nhưng rất… biểu cảm: Cục gạch cắm miếng giấy (chỗ bán xăng lẻ) và cái phong bì, không biết có nên cho chúng vào từ điển tiếng lóng thông dụng hay không?
Điều ngày càng được khẳng định là, nhà báo Sài Gòn lại cũng là tác giả của một số tiếng lóng rất hiện đại. Chính họ còn là đường truyền hiệu quả cho tiếng lóng. “Chọi” hiện đang được một số tờ báo sử dụng, ý chỉ 1 thí sinh đại học phải loại bao nhiêu thí sinh khác để có tên trong danh sách trúng tuyển! Nghe đầy bạo lực như chọi gà, chọi trâu, chọi dế…nhưng nghe miết thành…gần quen tai! Mấy năm nay đường phố Sài Gòn bị hết ngành này đến ngành khác băm cho nát. Ở những vết băm người ta dựng lên những tấm tôn mỏng manh xiêu vẹo, thế là lô cốt ra đời! Cùng với lô cốt là những hố tử thần chỉ thị việc các ông con nhà họ “Đào” đào lên để vậy chờ sẵn người tận số đi
qua! Botay.com thì còn gì hơn là cách than trời về những việc làm của một số quan chức thuộc loại đáng chào thua hoặc hết biết? Cũng từ các tờ báo, nhất là báo trào phúng, những tiếng lủm, nhím nghe khá gợi hình của một sự thô bỉ nhẫn tâm ra đời khi có những quan chức cắt xén tiền, hàng cứu trợ nạn nhân thiên tai. Cùng với nó, Biết ( ngon, dở, hay, đẹp…) chết liền! là một cụm từ tiếng lóng…nói trong trường hợp nào cũng được, miễn sao tỏ được ý phủ định của người nói trước người hỏi. Hỏi “Ngon gì mà ngon” hay &”Dở ẹc”;, đáp ‘Dở chết liền!”…”Đẹp không”, nếu là
nịnh thì “Xấu chết liền!”…
Tiếng lóng là tiếng chợ búa nhiều tính thự dụng, ra đời trong một bối cảnh nhất định, mà cuộc sống thì như một dòng chảy cho nên khai sinh nhanh thì tiếng lóng cũng không sống được lâu. Hai tiếng OK Salem của những tên ma cô dẫn gái tiếp thị với lính Mỹ ở Sài Gòn góc tối nào cũng có thể có, nhưng nó đã nhanh chóng bị đào thải theo chân những chú Yankee khi họ rời khỏi đây. Tiếng lóng là công cụ nhất thời như hoa phù dung sớm nở tối tàn vậy.
Nhắc đến tiếng lóng mà quên nhà văn quá cố Nguyên Hồng là một sự thất lễ. Trước năm 45 cụ đã lên đời loại tiếng vỉa hè này, đưa nó vào văn chương hẳn hoi. Tiểu thuyết “Bỉ vỏ”- nội cái nhan đề đã là một tiếng lóng ( chỉ người đàn bà móc túi)- của cụ đọc thật “bá chấy”. Lần đầu tiên người đọc được nghe tiếng của giới giang hồ đất cảng Hải Phòng : Mõi ( móc túi); kỳ bẽo (cờ bạc); sò quỷnh (người nhà quê) ; đông địa (nhiều tiền) v.v. Một dân móc túi thuộc loại trinh sát theo dõi một người nhà quê có vẻ có tiền, khi thấy ông ta vào quán cơm bụi, đã báo cho đồng bọn biết một cách gần như công khai :“Sò quỷnh đông địa tranh vòm” ( gã nhà quê lắm tiền vừa vào quán)! Trong khi chưa tìm ra ai khác nhà văn Nguyên Hồng, xin cứ tôn xưng cụ là …vua tiếng lóng. Vì nhân vật của cụ nói nguyên một câu bằng tiếng lóng, còn đám hậu sinh chỉ đệm được vài từ là cùng.