Quy Nhơn, thủ phủ của Bình Định, có hình dáng thon thả như một con tàu hướng mũi ra biển
Đông. Từ lâu bãi biển Quy Nhơn được coi là một thắng cảnh đẹp với bãi cát mịn vàng óng cùng
những cảnh vật hữu tình do thiên nhiên bài trí và con người tu tạo. Ghềnh ráng là một trong
những tác phẩm thiên tạo. Đoa là một quần thể Sơn Thạch chạy sát tới biển, dấu vết tận cùng về
phía đông của dãy núi Xuân vân trùng điệp nằm cách trung tâm thành phố chừng hai cây số về
phía Nam.

Nơi đây đá chất ngổn ngang, tạo thành hang, thành rạn, thành gành, quanh năm giỡn đùa cùng
sóng biển. Bãi đá này có tên là Nhạn Châu (Bãi Nhạn). Có lẽ vì đây là nơi chim nhạn thường kéo
đến tìm mồi, từng đàn, từng đàn đông đúc nên có tên như thế. Còn tên Ghềnh Ráng thì tên này
do những người đi biển đặt ra. Qua những nơi nhiều gành, lắm rạn, người ta phải tìm cách đổ bớt
gió trong buồn ra cho thuyền đi chậm lại. Thao tá cấy trong nghề đi biển gọi là ráng. Đi ngang
qua Nhạn Châu, người ta phải thường làm như thế. Lâu dần thành tên, vùng này được gọi là
Ghềnh ráng.ừ đỉnh Ghềnh ráng có thể phóng tầm mắt nhìn rộng cả bốn bề. Phía Nam như một
bức tranh sơn thủy hữu tình với những dải núi xanh dựng thành từng lớp, nơi cao, nơi thấp chạy
dọc theo ven biển chạy dọc đến tận Quy Hòa. Hướng về phương Bắc, lướt mắt qua dải cát vàng
mịn óng, thành phố Quy Nhơn hiện lên với thành phố dọc ngang, nhà cửa an sát, suốt ngày người
đi, kẻ lại. Xoay lưng vào động cát phía Tây, quay mặt ra hướng Đông là biển cả bao la một màu
xanh biếc. Chếch về hướng Đông Bắc là bán đảo Phương Mai án ngữ cửa Thị Nại như một tấm
bình phong khổng lồ. xa xa về phía Đông Nam, cách Quy Nhơn chùng 5km có một đảo lớn, tên
chữ là Thanh Châu, tục gọi Cù Lao Xanh. Từ xa xưa những người dân biển đã coi hòn đảo này
như một tiêu móc để định hướng đi. Sau này một ngọn hải đăng đã được xây dựng trên đó. Đi
học theo con đường đất uống lượn theo trên núi, du khách có dịp chiêm ngưỡng những tác phẩm
nghệ thuật điêu khắc kỳ dị mà tạo hóa đã tạc ra. Trên một phiến đá lớn có một bức phù điêu hình
mặt người. Lại có khối sơn thạch được mưa gió và thời gian mài gọt trông tựa đầu một con sư tử
lớn đang chồm ra biển đông, có trụ dáng hình đá Vọng Phu. Đặc biệt, ở đây có hai khối đá lớn
chồng xếp lên nhau trông rất chênh vênh được gọi là Hòn Chồng. Thoạt nhìn khối đá lớn như thể
muốn rơi, vậy mà trải qua bao năm tháng dãi dầu nó vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt”, đứng vững
hàng nghìn đời nay bất chấp phong ba bão tố. Từ Hòn Chồng đi về hướng bắc dọc theo bờ đá
ven biển sẽ gặp những hang động hùng hiểm, kỳ bí do đá nằm chồng chất lên nhau tạo thành. Đi
thêm chút nữa chợt thấy cảnh kỳ lạ. Cả một bãi rộng chừng hơn 40 mét vuông la liệt đá xanh
hình tròn, mặt nhẵn như quả trứng. Vì vậy bãi đá này có tên là Bãi Đá Trứng. Phía trên bãi có
một mạch nước ngầm từ khe núi chảy ra, tạo thành hai giếng nước ngọt hình lòng chảo nằm kề
nhau, miệng rộng hơn 1 mét, sâu chừng 50 xăng ti mét. Phía ngoài giếng chừng 5 mét có một tảng đá lớn đột ngột nhô cao trên mặt nước chừng 4 mét, án ngữ những cơn sóng lớn từ ngoài khơi đổ vào bờ. Đi hết bờ cát đá ven mép biển là một bãi cát vàng mịn màng hình lưỡi liềm mà đầu mút là Cầu Tấn. Cảnh đẹp nên thơ luôn là nguồn cảm hứng của thi ca. Ca ngợi vẻ đẹp đó, dân địa phương truyền tụng một bài thơ:
Gió Cầu Tấn trưa chiều thổi mát,
Bãi Quy Nhơn mịn cát dễ đi
Phương Mai Ghềnh Ráng tương tri,
Ngâm cầu thủy tú sơn kì thảnh thơi…


Trong tâm thức dân gian, cảnh đẹp huyền ảo bao giờ cũng là nơi có bóng dáng của thần tiên.
Cũng bởi lẽ đó mà Ghềnh ráng là nơi có truyền thuyết Tiên xuất hiện. Bên cạnh cái tên dân dã
thân quen, vùng này còn được gắn với một kỳ tích ly kỳ. Chuyện kể rằng, ngày xưa có một gia
đình nông dân nghèo, sinh được một cô con gái nết na, xinh đẹp. Khi lớn lên cô gái đã có một
mối tình trong trắng và mê say với một chàng trai cùng làng. Nhưng trớ trêu thay, tiếng đồn về
nhan sắc “chim sa, cá lặn” của nàng đã đến tai một viên quan hám sắc và độc ác. Y rắp tăm ép
nàng làm vợ. Bằng thủ đoạn gian sảo và ỷ thế quyền lực, y bắt người con trai đi lính rồi đưa
chàng đến tận nơi biên ải xa xôi và buộc nàng phải nộp 10 cân yến sào trong vòng một tháng,
nếu không đúng hạn sẽ phải lấy y, Giữ chọn mối tình chung thủy với người yêu, người con gái
không quản hiểm nguy quyết chí ra biển tìm tổ yến.
Không chịu khuất phục trước âm mưu đen tối của tên quan hiểu sắc, người con trai đã trốn về
tìm lại được người yêu. Vì hạnh phúc lứa đôi và thương người yêu thân gái liễu yếu đào tơ,
chàng không quản khó khăn nguy hiểm, quyết tâm thay nàng ra đảo. Người con gái trở về sống
trong mong đợi và lo âu. Đến thời hạn nộp yến mà bóng chàng vẫn biền biệt. Sợ quá nàng đành
bỏ chốn. Hay chuyện, viên quan cho lính đuổi theo. Bị truy đuổi gắt gao, người con gái chạy đến
Ghềnh ráng, ẩn vào núi Vũng Chua. Quân lính đuổi tới đây bỗng trời nổi cơn giông tố, gió cuốn
ào ào, mưa bay mù mịt, sấm chớp đùng đùng. Bỗng nhiên núi nứt ra một khe lớn, nàng chạy vào
vụt đó rồi biến mất. khi giông tan, trời quang, mây tạnh, khe núi biến thành một dòng suối mát,
uốn lượn trên sườn núi như một dải lụa nối trời với đất. Người đời gọi đó là suối tiên.
Chàng trai khi tìm được đủ số yến cũng hối hả trở về những mong chuột lại được người yêu. Nào
ngờ trên đường từ đảo vào đất liền cũng gặp giông bão, yến bị sóng biển cuốn trôi hết. Chàng
đuối sức rồi ngất xỉu, sóng biển đã đưa chàng tấp vào Ghềnh Ráng. Khi tỉnh lại, chàng còn đàng
ngơ ngác chưa hiểu mình bị dạt vào nơi đâu thì thấy bóng người con gái lúc hiện. lúc ẩn, chàng
vừa gọi vừa chạy theo cho đến khi hai người cùng biến mất. Ghềnh Ráng trở thành nơi tụ đoàn
của những đôi uyên ương, vì cường quyền mà không nên được nghĩa vợ chồng lúc còn ở dương
gian. Họ đã phải thoát tục thành tiên mới đến được với nhau. Câu chuyện thường đươm màu
huyền thoại và đậm chất nhân văn ấy đã gán cho Ghềnh Ráng thêm hai chữ Tiên Sa, nên trong
dân gian thường gọi vùng này bằng cái tên ghép Ghềnh Ráng – Tiên Sa
Bảo Đại, vị hoàng đế cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam, đã chọn Ghềnh Ráng để lập
một hàng cung. Năm 1927, ông đã cho xây dựng một tòa biệt thự ba tầng cùng những công trình
phục vụ cho cuộc sống đế vương trong những khi đi kinh lí và nghỉ ngơi, thưởng ngoạn cảnh đẹp
ở Bình Định. Tòa biệt thự này đã bị nhân dân đập phá 1949, nay chỉ còn lại phế tích. Cũng vì sự
hiện diện của hành cung này mà khu vực có hai giếng nước ngọt thiên tạo gần Bãi Đá Trứng còn
có tên là bãi tắm Hoàng Hậu.

Ghềnh Ráng còn nổi tiếng thêm nhờ tài danh của thi sỹ Hàn Mặc Tử. Do mắc phải chứng bệnh
hiểm nghèo, ông đã phải sống những năm tháng cuối đời trong trại phong Quy Hòa. Tâm trạng
đầy đau thương và giông bão lại được tiếp thêm cảm hứng từ cảnh thiên nhiên siêu thực ông đã
viết lên những án thơ bất hủ để lại cho đời. Hàn Mạc Tử qua đời khi còn quá trẻ, lúc nhà thơ mới
vừa 28 tuổi. Để thỏa nguyện mong ước của thi sỹ lúc sinh thời, năm 1969, gia đình và thân hữu
đã đưa thi hài Hàn Mạc Tử về táng ở Ghềnh Ráng. Ngôi mộ trang nhã đã xây cất trên một gò
cao, lưng dựa vào núi, mặt quay ra biển là nơi mà ai ai dù chỉ một lần đặt chân đến Ghềnh Ráng
cũng đều ghé thăm. Đó không chỉ đơn thuần là một kiến trúc xinh đẹp ở vào vị trí đắc địa của
một danh thắng mà hơn thế là nơi tưởng niệm một danh nhân