Ngày Tết, những người dân thường hay mua hai cây mía còn nguyên phần rễ và lá về dựng hai bên bàn thờ để thờ tự. Đến ngày khai hạ hoặc có nhà đến Rằm tháng Giêng mới ăn. Tục thờ mía trong ngày tết có từ bao giờ quả là một ẩn số khó trả lời đối với lớp người hậu sinh như chúng ta. Nhưng trong ký ức tuổi thơ của nhiều người hay ngay cả bây giờ chắc hẳn hình ảnh cây mía bên bàn thờ tổ tiên cũng không hề xa lạ.
Đã có nhiều cách giải thích về tục lạ này như đó là việc người ta giữ sự ngọt ngào từ năm cũ sang năm mới để kì vọng mọi việc trong năm êm ngọt; có người giải thích từng đốt mía như nấc thang để hồn leo lên giời đến cõi siêu sinh; cũng có nơi giải thích đó hai cây gậy để ông bà chống gậy tìm về với con cháu… Cách giải thích nào cũng thể hiện cái tâm hướng nguồn và hướng tới sự tốt đẹp.
Tục thờ mía trong ngày tết có từ bao giờ quả là một ẩn số khó trả lời đối với lớp người hậu sinh như chúng ta. Nhưng có lẽ nguồn gốc của tín ngưỡng này ít nhiều gắn liền với văn hóa nông nghiệp của người Việt từ xa xưa. Mỗi khi tết đến – xuân về, bên cạnh mâm ngũ quả tượng trưng cho âm dương – ngũ hành, các gia đình người Việt thường tìm và chọn mua lấy hai cây mía thật to, thật thẳng để dựng hai bên bàn thờ tổ tiên. Cây mía được chọn để thờ phải được giữ nguyên tán lá, gốc rễ, róng (đốt, có nơi còn gọi là lóng) phải đều và nhất là không được sâu.
Ý nghĩa đầu tiên của việc thờ cúng cây mía trong ngày tết của người Việt là “sự nối kết”. Cây mía giống như một biểu tượng của sự giao hòa trời – đất, kết nối hai thế giới âm – dương. Tán lá tượng trưng cho mây, trời. Gốc rễ tượng trưng cho đất, cho gốc cội gia đình. Những róng mía lúc này như những nấc thang nối liền đất – trời, âm – dương dẫn đón linh hồn tổ tiên từ trên trời trở hạ giới về sum vầy cùng cháu con trong những ngày đầu tiên của năm mới.
Theo quan niệm của người Việt, cây mía còn là “vật bất li thân” trong hành trình tổ tiên trở về trời sau ba ngày tết sum vầy cùng cháu con dưới hạ giới. Trong lễ “tiễn ông vãi” (thường được tổ chức vào ngày mùng 3 tết), con cháu sẽ chọn những sản vật là thành quả lao động trong năm cũ dâng lên gia tiên. Lúc này mía trở thành “đòn gánh” chuyên chở những sản vật ấy.
Dọc đường đi không tránh khỏi những tà ma, cô hồn tranh cướp những tài sản con cháu đã dâng tặng tổ tiên, cây mía bây giờ là thứ vũ khí gần gũi nhất đánh đuổi tất cả. Có khi trên hành trình đôi chỗ gặp những khúc sông vắng không cầu, không đò… mía lại trở thành những cây cầu để lộ trình của tổ tiên được thuận lợi.
Một điều trong bất kỳ tín ngưỡng thờ cúng nào, người Việt đều hướng đến đó chính là sự nguyện cầu. Khi chọn cây mía làm sản vật thờ cúng, cha ông ta đã gửi vào đó những ước mong gắn liền với đặc trưng vốn có của nó. Mía vốn là sản phẩm nông nghiệp mang lại vị ngọt cho cuộc sống. Bởi vậy, điều đầu tiên mà người Việt hướng đến đó chính là nguyện cầu một năm mới với sự ngọt ngào, may mắn. Mía còn thể hiện sự vươn lên mạnh mẽ, sự rắn chắc. Thế nên nó còn gửi gắm ước nguyện được vươn cao đến sự thành công và mong cầu sức khỏe…
Những gì mà người Việt gửi vào tín ngưỡng thờ cúng cây mía ngày tết vừa đề cập ở trên chắc hẳn là chưa đủ đầy. Lý do là ở chỗ do quan niệm của từng người, từng vùng miền đôi chỗ có khác nhau. Tuy nhiên chừng ấy cũng đủ thấy sự phong phú và những nét đẹp tâm linh trong văn hóa tết cổ truyền dân tộc Việt Nam. Đối với người Việt Nam, mỗi sản vật được chọn để dâng lên bàn thờ gia tiên đều hàm chứa trong đó những ý nghĩa. Việc cây mía được sử dụng trong nghi lễ thờ cúng trong ngày tết cổ truyền là một trường hợp như vậy.
Không chỉ là sản vật dâng cúng gia tiên, cây mía trong thờ cúng ngày tết đã trở thành một biểu tượng văn hóa tâm linh của người Việt. Bởi vậy khi những giá trị hiện đại đang dần len lỏi vào mọi khía cạnh của cuộc sống thì nó cần phải được lưu giữ để hương vị ngày tết cổ truyền dân tộc càng trở nên đậm đà…
Những người theo và đọc Phật giáo họ có những kiến giải khác cần tham khảo. Nói chung, tang ma, cúng tế, nghi lễ người Kinh là một hiện tượng phức tạp, tích hợp nhiều tín ngưỡng. Những tín ngưỡng thời Việt cổ (Trước Công nguyên) không từng được người Việt lúc đó ghi chép nên ta khó gặp những cái cụ thể để so sánh. Hình ảnh cây mía cũng không thật rõ ràng, hình ảnh bông lau cũng chỉ là ước đoán. Công cụ ép mật làm đường chưa khảo cổ được. Đối với người Kinh, trong sự tích hợp, ta dễ nhận ra nhất là tính chất đậm đà của Phật giáo trong hành vi cúng tế này. Đốt ngũ phần hương, bày mâm ngũ quả, tụng a di đà… toàn là của Phật giáo, không những ảnh hưởng ở người Kinh mà còn ảnh hưởng cả dân Trung Hoa từ thời Bắc thuộc, nghĩa là lâu lắm rồi.
Phật giáo Ấn Độ, theo truyền thống trước đó, coi tổ tiên Thích ca là thuộc họ Cây Mía, tiếng Phạm là Gautama, phiên âm và chữ sang tiếng Hán là Cù Đàm hoặc còn đọc là Cồ Đàm. Về nguồn gốc của dòng họ Mía của Phật, có nhiều thuyết được ghi sớm ở các kinh sách khác nhau, đại đồng tiểu dị. Theo sách “Thập nhị du” thì ở kiếp xa xưa trong quá khứ, có một vị Bồ tát làm vua, cha mẹ mất sớm, bèn nhường ngôi cho em rồi theo học đạo với một người Bà la môn, ở trong một vườn mía, người đời gọi thầy của Bồ tát là “Đại Cù đàm”, gọi Bồ tát là “Tiểu Cù đàm”. Thời ấy có 500 tên cướp lấy của nhà quan, trên đường tẩu thoát, chạy qua vườn mía, đánh rơi những đồ lấy được trong vườn, người đuổi bắt theo dấu tìm đến nơi, thấy thế bèn cho Bồ tát là ăn cướp, rồi dùng tên bắn Bồ tát, máu chảy lênh láng mặt đất. Đại Cù đàm dùng thiên nhãn thấy suốt, thương xót khóc lóc, vạt lấy máu còn đọng trên mặt đất, trộn với bùn đựng vào hai chiếc bát nhỏ, đặt ở hai bên trong vườn mà chú nguyện rằng: Nếu Cù đàm có lòng thành thì thiên thần sẽ biến máu thành người. Mười tháng sau, chiếc bát bên trái hóa thành con trai, chiếc bên phải hóa thành con gái và từ đó lấy họ là Cù đàm.
Sách “Đại nhật kinh sớ” quyển thứ 16 chép, người tiên Cù đàm (Cù đàm tiên), hành dâm giữa hư không, có giọt nước dơ bẩn rơi xuống mặt đất, mọc thành hai cây mía, sau đó nhờ ánh quang hợp của mặt trời mà sinh ra hai người con, một người trong đó làm vua họ Thích. Cho nên, tương truyền người tiên Cù đàm là tổ của Thích Ca, và dòng họ Thích cũng nhân thế mà gọi là giống Cam giá tức giống Cây Mía.
Một truyền thuyết khác về cây mía cũng được ghi trong Phật tạng là về Cam giá vương tức Vua cây mía. Kinh “Phật bản hạnh tập” quyển 5 chép, trước vua Cam giá, có vua tên là Đại mao thảo vương, bỏ ngôi vua đi xuất gia, được năm thần thông, gọi là Vương tiên. Vương tiên già yếu không đi được, các đệ tử ra ngoài xin ăn, sợ thầy ở nhà bị hùm sói bắt, bèn để thầy vào chiếc lồng bằng cỏ rồi treo trên cây. Bấy giờ có người đi săn, nhận lầm Vương tiên là con chim trắng, mới giương cung bắn chết, chỗ máu của Vương tiên rỏ xuống, sau mọc lên hai cây mía, mặt trời nóng quá, hai cây mía nứt ra và sinh một bé trai, một bé gái. Đại thần hay tin, rước về trong cung nuôi nấng. Bé trai vì ánh nắng làm nứt cây mía mà sinh, nên đặt tên là Thiện giá sinh; lại do mặt trời nung nên gọi là Nhật chủng; còn bé gái thì đặt tên là Thiện hiền. Sau lập Thiện sinh làm vua và Thiện hiền được lập làm hoàng hậu. Thiện hiền sinh được một đứa con. Sau vua lấy thêm hai người vợ sinh được 4 đứa con. Thiền hiền muốn lập con mình làm vua, bèn khuyên vua đuổi 4 đứa con kia ra khỏi nước. Bốn người con ấy dựng nước phía sau núi Tuyết lập nên họ Thích ca.
Ở Việt Nam, khi vãn cảnh chùa, tức là đến với chốn Phật, phải trèo dốc cao, người ta thường bán mía làm gậy với ý nghĩa hồi hướng về cõi Phật tổ. Vậy, theo truyền thống, thờ tự là một nghi lễ chứa đựng cảm hứng ngược nguồn hướng cội mạnh mẽ, cây mía ở đây sẽ biểu tượng cho cội nguồn dòng họ của Phật tổ Như lai, thờ mía cũng là thờ cội nguồn Phật giáo.
Trong đời sống thực sinh, nhiều gốc tích của hành vi sẽ dần dần bị lãng quên, chỉ có tập tục là lưu giữ lâu bền như một quán tính văn hóa. Rồi dân gian, đến lượt nó lại sáng tạo ra nhiều truyền thuyết, giai thoại để giải thích lại, tạo ra tâm thức cộng đồng phong phú, thú vị. Điều này tồn tại như một phong cách sáng tạo của nghệ thuật ngôn từ dân gian. Tuy nhiên, cảm hứng hướng đến nguồn cội thì vẫn đậm đà đặc biệt khi Tết đến, người ta ngẫm nghĩ về quá khứ, thực hành trong hiện tại và kì vọng về tương lai.
Cây mía vốn đem lại sự ngọt lành trong đời sống, nay được thờ tự, lại thêm phần thiêng liêng, ý nghĩa.
Theo FB Văn Hoá Việt Nam