TƯ LIỆU THUYẾT MINH DU LỊCH CAO NGUYÊN MỘC CHÂU SƠN LA

 

1. LỊCH SỬ

a. Quá trình thành lập huyện
Mộc Châu và những thay đổi địa giới, tên gọi qua các thời kỳ

Thờicác vua Hùng, miền đất Mộc Châu thuộc bộ Tân
Hưng – một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Thời Bắc thuộc, Mộc Châu thuộc vùng
đất Châu Phong. Thời nhà Lý (1010 – 1225) thuộc châu Lâm Tây. Đời Trần (1225 –
1400) thuộc đạo Đà Giang, cuối đời nhà Trần lại đặt thuộc trấn Thiên Hưng. Thời
thuộc Minh (thế kỷ XV) là đất huyện Tứ Mang và huyện Mông thuộc châu Gia Hưng.
Theo Hưng Hóa phong thổ lục của
Hoàng Bình Chính, năm Ất Mùi (Cảnh Thịnh thứ 36 – 1775), dưới đời vua Lê Hiển
Tông chia đất Mộc Châu thành 03 châu mường: châu Đà Bắc, châu Mã Nam, châu Mộc
Châu. Đến giữa thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn, đường ranh giới giữa các châu,
mường về cơ bản vẫn giữ nguyên theo địa lý hành chính thời Lê. Năm Minh Mạng
thứ 12 (1831), Mộc Châu thuộc tỉnh Hưng Hóa. Năm Tự Đức thứ 4 (1852), Mộc Châu
kiêm nhiếp Châu Yên.
Thời Pháp thuộc, Mộc Châu và tỉnh
Sơn La thuộc Đạo quan binh 4. Năm 1892, Mộc Châu thuộc phủ Vạn Yên. Năm 1904,
Mộc Châu thuộc tỉnh Sơn La. Năm 1949, Mộc Châu được hợp nhất với huyện Yên Châu
gọi là liên huyện Mộc – Yên.
Sau kháng chiến chống Pháp, từ năm
1955 đến năm 1962, Châu Mộc thuộc Khu tự trị Thái – Mèo. Năm 1963 đến nay Mộc
Châu thuộc
tỉnh Sơn La.
 

b. Sự kiện lịch sử

Tháng 4/1947, chi bộ Mộc Châu
thành lập. Ngày 28.7.1947, bộ đội ta tổ chức đánh địch ở Sồm Lồm (Phiêng Luông)
và cướp kho vũ khí ở Hướng Càn (Quy Hướng). Tháng 3/1948, ban Châu uỷ Mộc Châu
được thành lập. Ngày 15/5/1949, Hội nghị Tỉnh uỷ họp tại khu căn cứ kháng chiến
Mộc Châu. Tháng 6.1950, bộ đội chủ lực tổ chức phục kích đánh thực dân Pháp tại
Tà Phềnh (Tân Lập).
Ngày 09/7/1951, bộ đội địa phương,
dân quân du kích tổ chức phục kích địch trên đường Nà Mường – Mộc Lỵ diệt 30
địch, làm bị thương 20 tên, thu nhiều vũ khí trang bị. Đêm ngày 17/11/1952,
trung đoàn 209 và một tiểu đoàn của trung đoàn 141 do Nam Long chỉ huy tiến
công diệt đồn bản Hoa (Tân Lập), diệt hơn 300 địch. Đêm ngày 18/11/1952, trung
đoàn 141 dùng 2 tiểu đoàn tập kích đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn địch tại
đồn Pa Lay (Nà Mường). Ngày 19/11 – 20/11/1952, ta tấn công đồn Mộc Lỵ, giải
phóng Mộc Châu. Tháng 4.1958, Nông trường quân đội
Mộc Châu được thành lập với nhiệm vụ trồng chè và chăn nuôi gia súc. Ngày
8.5.1959, Bác Hồ cùng đoàn đại biểu Trung ương Đảng và Chính phủ lên thăm Mộc
Châu.
Ngày 12/6/1965, máy bay Mỹ bất ngờ
ném bon khu vực km82, mở đầu chiến tranh bắn phá tỉnh Sơn La, ngày 14/6/1965,
chúng ném bom khu vực km64, ngày 21/6 ném bom khu vực thị trấn Mộc Châu và một
số nơi khác. Ngày 14/6/1965, quân và dân Mộc Châu đã đánh trả nhiều tốp máy báy
Mỹ, 3 chiếc máy bay F105D của giặc Mỹ bị bắn rơi. Ngày 05/10/1965, dân quân xã
Chờ Lồng bắn rơi 01 chiếc F105D, phối hợp với xã Phiêng Luông bắt sống giặc
lái. Ngày 28/11/1965, lực lượng tự vệ khối cơ quan phối hợp với đại đội 403 địa
phương, bắn rơi 4 máy bay phản lực Mỹ. Tháng 10/1972, máy bay Mỹ ném bom xuống
thị trấn Nông trường và một số điểm trên địa bàn huyện Mộc Châu.
Từ ngày 19 đến 22/12/1958, Đại hội đại biểu Đảng bộ châu Mộc Châu lần thứ nhất được triệu tập tại
Hội trường Châu ủy (nay là Tiểu khu 11, Thị trấn Mộc Châu). 19 giờ ngày
29/4/1960, Đại hội trù bị Đảng bộ châu Mộc Châu lần thứ II được tiến hành, 7
giờ ngày 30/4/1960, Đại hội đại biểu Đảng bộ châu Mộc Châu lần thứ II được khai
mạc tại Hội trường châu ủy (nay là Tiểu khu 11, thị trấn Mộc Châu) Đại hội làm
việc trong 5 ngày từ 29/4 – 04/5/1960. Từ ngày 19 đến 22/12/1961, Đảng bộ châu
Mộc Châu tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ III, nhiệm kỳ 1961 – 1963 tại Hội
trường Châu ủy. Tháng 3/1963, Đại hội đại biểu Đảng bộ châu Mộc Châu lần thứ
IV, nhiệm kỳ 1963 – 1965 được tổ chức tại Hội trường Ủy ban nhân dân huyện (nay
là Tiểu khu 11, thị trấn Mộc Châu). Năm 1964, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện
Mộc Châu lần thứ V, nhiệm kỳ 1964 – 1967 được triệu tập tại Bản Búa xã Mường
Sang (nay thuộc xã Đông Sang). Từ ngày 07 – 10/3/1967 Đại hội đại biểu Đảng bộ
huyện Mộc Châu lần thứ VI, nhiệm kỳ 1967 – 1969 diễn ra tại bản Búa xã Mường
Sang (nay là xã Đông Sang). Từ ngày 12 đến 15/6/1969 Đại hội đại biểu Đảng bộ
huyện Mộc Châu lần thứ VII, nhiệm kỳ 1969 – 1970 được tiến hành tại bản Búa xã
Mường Sang (nay là xã Đông Sang). Từ ngày 03 đến 08/01/1970, Đại hội đại biểu
Đảng bộ huyện Mộc Châu lần thứ VIII được tiến hành tại bản Búa xã Mường Sang
(nay là xã Đông Sang). Từ ngày 12 đến 16/01/1973, Đại hội đại biểu Đảng bộ
huyện lần thứ IX được tổ chức tại bản Búa, xã Mường Sang (nay là xã Đông Sang).
Từ ngày 20 đến 24/11/1974, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mộc Châu lần thứ X
(nhiệm kỳ 1974 – 1977) được tiến hành tại Hội trường Ủy ban hành chính huyện.
Tháng 6/1974, Đảng bộ tiến hành Đại hội Quyết thắng nhằm biểu dương thành tích
của lực lượng quân sự địa phương, thực hiện chính sách hậu phương, phát động
thi đua mới. Từ ngày 05 đến 10/4/1977, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mộc Châu
lần thứ XI, nhiệm kỳ 1977 – 1978 được tổ chức tại Hội trường UBND huyện (nay là
Tiểu khu 2, thị trấn Mộc Châu). Từ ngày 07 đến 09/11/1979, Đại hội đại biểu
Đảng bộ huyện Mộc Châu lần thứ XII, nhiệm kỳ 1979 – 1982 được tổ chức tại
Hội trường Ủy ban nhân dân huyện. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mộc Châu
lần thứ XIII, nhiệm kỳ 1983 – 1985 được tổ chức làm 2 vòng: Vòng I, từ ngày 24
đến 29/12/1981; vòng II từ ngày 06 đến 10/12/1982 tại Hội trường Ủy ban nhân
dân huyện. Từ ngày 23 đến 27/9/1986, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mộc Châu
lần thứ XIV, nhiệm kỳ 1986 – 1988 tổ chức tại Hội trường Ủy ban nhân dân huyện.
Từ ngày 12 đến 14/01/1989 Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mộc Châu lần thứ XV,
nhiệm kỳ 1989 – 1991 được tổ chức tại Hội trường Nông trường Mộc Châu I. Năm
1988, Đại hội Hội Cựu chiến binh huyện lần thứ nhất được tổ chức. Năm 1991, Ban
Thường vụ Huyện uỷ chỉ đạo 02 cuộc vận động lớn: củng cố, làm trong sạch và
nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đấu tranh chống tham nhũng. Đại
hội đại biểu Đảng bộ huyện Mộc Châu lần thứ XVI, nhiệm kỳ 1991 – 1996 được tổ
chức làm 2 vòng: Vòng I, từ ngày 29 đến 31/3/1991; vòng II từ ngày 23 đến 25/10/1991
tại Hội trường Ủy ban nhân dân huyện. Năm 1992, Đảng bộ tích cực chỉ đạo nhân
dân các dân tộc từng bước xoá bỏ việc trồng và hút thuốc phiện. Từ ngày 29 đến
31/3/1996 Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mộc Châu lần thứ XVII nhiệm kỳ 1996 –
2000 đã diễn ra tại Hội trường Ủy ban nhân dân huyện. Năm 2000, Mộc Châu hoàn
thành công tác giao đất, khoán bảo vệ rừng đến hộ gia đình và cơ sở. Ngày
20/11/2000, Lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân huyện.
Từ ngày 28 đến 30/11/2000 Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mộc Châu lần thứ
XVIII, nhiệm kỳ 2000 – 2005 được tiến hành tại Hội trường nhà đa năng trường
Phổ thông dân tộc Nội trú huyện. Từ ngày 20 đến 22/9/2005 Đại hội đại biểu Đảng
bộ huyện Mộc Châu lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2005 – 2010 được tổ chức tại Hội trường
Nhà văn hóa huyện. Từ ngày 10 đến 12/8/2010 Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mộc
Châu lần thứ XX, nhiệm kỳ 2010 – 2015 được tổ chức tại Hội trường Nhà văn hóa
huyện.

2. Văn hóa

Bản, mường (làng, xã) là nơi tồn
tại cuộc sống cộng đồng của cư dân các dân tộc Mộc Châu. Cuộc sống đó lấy kinh
tế ruộng nước và nương rẫy làm nền tảng. Đơn vị bản bao gồm những gia đình
thuộc những dòng họ của một hay hai, ba dân tộc cùng cư trú. Nhiều bản họp thành
mường, bao gồm các gia đình của nhiều dòng họ khác nhau với những đường ranh
giới rất cụ thể, với những tục lệ cổ truyền. Bản, mường có mối quan hệ chặt chẽ
như “gốc với rễ, như cây với cành” tạo ra một bộ máy hoàn chỉnh có tính chất
khép kín, mang đậm màu sắc dân tộc ở Mộc Châu. Trong nền tảng xã hội ấy, bản
được xem là đơn vị kinh tế, chính trị quan trọng trong xã hội. Các gia đình
trong bản với các thành viên của mình hợp lại thành một cộng đồng cư dân có tổ
chức nhất định. Mỗi bản có địa vực cư trú riêng, có phạm vi đất đai canh tác
đất rừng, khúc sông, khe suối riêng thuộc quyền quản lý và sử dụng của bản. Do
vậy, cộng đồng bản là một cộng đồng nông thôn độc lập, lấy đơn vị gia đình làm
nền tảng. Và trên địa bàn cư trú ấy họ đã cùng nhau chung lưng đấu cật để khai
phá ruộng nương, lấy gỗ dựng nhà, chống thiên tai, giặc dã. Từ đó mối giao cảm,
tình yêu thương, tính cộng đồng và tình đoàn kết đã hình thành và trở thành một
truyền thống tốt đẹp của người dân xứ Mộc.
Chính sự hòa nhập giữa các dân tộc
MộcChâu đã tạo nên đặc điểm rất điển hình đó là sự giao thoa về văn hóa
và sử dụng lẫn nhau về tiếng nói để trao đổi hàng hóa và giao tiếp trong sinh
hoạt. Văn hóa Thái là “văn hóa thung lũng”, “văn hóa lúa nước”, văn hóa Mông,
Dao, Xinh Mun hay Khơ Mú là “văn hóa đồi gò”, “văn hóa lúa nương”. Nhưng dù ở
hình thái nào thì văn hóa của cộng đồng các dân tộc Mộc Châu là nền “văn hóa
văn minh nông nghiệp”.
Các dân tộc huyện Mộc Châu thuộc
hệ ngôn ngữ Nam Á, tiếng nói các dân tộc luôn là công cụ giao tiếp hàng ngày,
chỉ có dân tộc Thái và dân tộc Dao có chữ viết và lưu lại nhiều văn bản quý giá
góp phần vào kho tàng văn hóa của các dân tộc Mộc Châu. Do Mộc Châu có nhiều
dân tộc cùng sinh sống, vì vậy ở đây có hiện tượng song ngữ và đa ngữ phổ biển
là ngôn ngữ tiếng kinh, tiếng Thái, tiếng Mông, tiếng Dao, tiếng Mường.
Nhà ở truyền thống của các dân tộc
Mộc Châu có hai loại cơ bản: Nhà sàn của dân tộc Thái, Mường, Khơ Mú, Xinh
Mun. Thiết kế nhà cổ truyền theo kiểu vì cột, liên kết chủ yếu là buộc, gá hoặc
dùng ngoẵm; một gian chính, hai chái, hai mái chính hình thang cân và phẳng,
hai mái đầu hồi nhỏ và thấp. Tại hai đầu hồi, có cầu thang với số bậc lẻ. Cách
bố trí nơi ăn ở trên sàn tương đối thống nhất. Tính theo chiều ngang bên trái
là nơi ngủ, đặt bếp và là nơi sinh hoạt của gia đình, phía thờ tổ tiên dành cho
nam giới, phía giáp bếp là khu vực của phụ nữ, tiếp đó là sàn phơi và đồ đựng
nước. Nhà của các dân tộc Kinh, Mông, Dao chủ yếu là nhà trệt, về hình dáng
kiến trúc ngôi nhà phần lớn sử dụng loại nhà trệt ba gian hai chái, mái lợp
tranh hay ngói âm dương, phía trước có hiên đón, cửa ra vào mở ở gian giữa, hai
bên có cửa sổ nhỏ mở ra hiên.. Trải qua bao đời chung sống đồng bào các dân tộc
đã tự hòa nhập và chịu ảnh hưởng lẫn nhau khá đậm nét, đặc biệt phong cách kiến
trúc của người thái có ảnh hưởng nhiều tới kiến trúc của các dân tộc anh em.
Trang phục là yếu tố quan trọng
của văn hóa các dân tộc
MộcChâu, phản ánh nếp sống văn hóa của con
người trong mỗi cộng đồng dân tộc. Trang phục không chỉ mang tính chất giới
tính mà còn mang tính xã hội rất rõ rệt. Đó là trang phục ngày thường, trang
phục mặc trong những ngày lễ hội, cưới xin, ma chay. Chất liệu của trang phục
bằng sợi bông, lanh, được nhuộm chàm. Các trang phục đều được trang trí cầu kỳ
và đẹp mắt, nó thể hiện cảm quan thẩm mỹ, sự khéo léo, tài hoa và phản ánh bản
sắc văn hóa đặc trưng của từng tộc người. Trang phục còn thể hiện mối quan hệ
khăng khít giữa con người với môi trường tự nhiên. Cách trang trí trên trang
phục đều lấy thế giới động thực vật làm đối tượng phản ánh. “Vườn hoa trang
phục” của các dân tộc Mộc Châu thật giàu hương sắc. Sự dịu dàng, tinh tế, lắng
đọng của trang phục Thái, Mường, Xinh Mun, Khơ Mú… và sự phô diễn rực rỡ của
trang phục Mông, Dao.
Văn hóa ẩm thực là bộ phận thứ ba
của văn hóa các dân tộc Mộc Châu, Sách Đại nam nhất thống chí triều
Nguyễn có ghi: “Dân phần nhiều là ăn cơm nếp, mặc vải chàm,
sau lưng địu con, gần nhà đặt cối dùng sức nước để giã gạo, làm guồng nước để
tưới ruộng, dùng ống vầu để múc nước. Có bệnh thì cầu đảo quỷ thầnm lấy vợ thì
ở rể; người chết thì chia của”.
 Cơm nếp, ngô, măng, rau, thịt,
cá là những thứ thường thấy trong bữa ăn hàng ngày của đồng bào. Khẩu vị ưa
thích là món nướng, đồ xôi hay vùi tro, đồng bào thường thích chua, cay, đắng
và các nhiều gia vị.
Đồ uống thường ngày là rượu cần, rượu nếp, rượu cất thường dùng trong dịp lễ
tết, đón khách. Đặc trưng là rượu ngô của dân tộc Mông; rượu gạo của dân tộc
Thái, Mường; Rượu hoẵng của dân tộc Dao…
Nghề thủ công của các dân
tộc như rèn, mộc, đan lát, dệt thổ cẩm, thêu…được coi là nghề phụ gia đình. Nếu
như nghề đan lát là công việc của đàn ông đã đạt đến trình độ kỹ thuật và mỹ
thuật cao thì nghệ dệt vải có từ ngàn đời là của chị em phụ nữ các dân tộc.
Những tấm vải đẹp với những hoa văn sặc sỡ, sinh động, mang sắc thái riêng của
từng dân tộc đã trở thành những tác phẩm nghệ thuật trang phục phổ biến, phản
áng đời sống vật chất và tinh thần phong phú của các dân tộc Tây Bắc nói chung
và dân tộc Mộc Châu nói riêng. Ngày nay các ngành nghề đa dạng và phong phú
hơn, nền kinh tế không hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên và mang tính tự cấp,
tự túc nữa, đơn vị kinh tế không chỉ  là gia đình mà các công, nông, lâm
nghiệp được thành lập để khai thác ưu thế của một miền đất trù phú, giàu tiềm
năng phát triển cây công nghiệp, ăn quả.
Hầu hết các tộc người thiểu số
sống ở 
vùngMộc Châu đều theo tín ngưỡng đa thần và
quan niệm về vũ trụ xung quanh con người được tạo bởi nhiều tầng thế giới.
Người Thái họ tin trên trời có Then luông là đấng quản trời đất, vạn vật và con
người, ở trần gian , bất cứ nơi nào cũng có các ma cai quản, muốn lập bản, khai
phá ruộng, phá nương đều phải xin phép các ma. Những vị thần trên trời, các ma
ở trần gian cùng ma nhà, ma họ, những ông bà, cụ kỵ đã khuất là những lực lượng
phù hộ bảo vệ con người. Việc thờ cúng trời đất, tổ tiên được thể hiện bằng
những nghi thức, lễ nghi nông nghiệp, chủ yếu nhằm cầu xin trời đất bảo vệ mùa
màng, mưa thuận gió hòa, dân chúng ấm no.
Tín ngưỡng và tôn giáo có vai trò
rất quan trọng trong sự cố kết cộng đồng dòng họ của người Mông. Họ có những
truyền thuyết về những vị thần tạo ra thế giới, tổ tiên của loài người và tổ
tiên của dân tộc Mông, những vị thần đã dạy cách “làm ăn, làm uống” và “ đường
lý, đường lẽ” dẫn dắt người Mông. Họ cho rằng ngự trị, quản lý và điều hành thế
giới vạn vật là một lực lượng siêu nhiên, lực lượng siêu nhiên đó được gọi là
ma; Ma có ở mọi nơi, mọi lúc. Thế giới vạn vật như: đất đai, rừng núi, sông
suối, cây cỏ, chim muông, dã thú….. đều có linh hồn và là một thực thể sống.
Con người phải biết thờ cúng, kiêng kỵ.
Đồng bào Dao có quan niệm vạn vật
hữu linh, mọi vật đều có linh hồn, có ma cai quản. Người Dao chia ma quỷ, thần
thánh ra làm hai loại: loại ma lành và loại ma dữ. Thờ cúng tổ tiên là việc thờ
cúng chủ yếu trong gia đình đồng bào Dao. Đồng bào cho rằng, khi cha mẹ chết đi
thì linh hồn sẽ trở về thế giới bên kia và ở bên đó họ cũng trồng trọt, sản
xuất giống như người bình thường. Chính vì vậy con cháu phải có nghĩa vụ thờ
cúng và cung các những thứ cần thiết cho sinh hoạt hằng ngày của tổ tiên. Tổ
tiên thuộc dạng ma lành phù hộ cho con cháu. Con trai, con gái đồng bào Dao
sinh ra đặt tên theo thứ tự ton, náy, lún…
Làm ma chay cho người chết là sự
báo hiếu của người sống đối với người chết, hay tỏ rõ công ơn sinh thành dưỡng
dục với đạo lý truyền thống “uống nước nhớ nguồn” đã có từ lâu đời. Tập tục ma
chay là lĩnh vực thuộc cõi tâm linh nhằm thỏa mãn nhu cầu tình cảm con người
với con người, là sự thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu với người quá
cố. Khi nhà có người mất, chủ nhân báo tin cho hàng xóm, anh em họ
hàng, con cháu trong nhà đi mời gọi anh em, chú bác, mời thầy cúng, thầy kèn,
trống. Tang chủ cùng anh em họp bàn tổ chức tang lễ: cử một người trong họ làm
chủ quản, điều hành mọi việc trong những ngày có tang. Mỗi một dân tộc có những
nghi lễ riêng, các dân tộc ở
Mộc Châu không có tục cải mả, riêng ở đồng bào dân tộc Thái có tục chia
của, những lời a của người dẫn đường, chỉ lối người chết về cõi âm ty, lời răn
dậy của người đã khuất để lại cho con cháu ở dân tộc Mông có…
Về cưới xin của các dân tộc huyện
Mộc Châu, nhìn chung khi đến tuổi lập gia đình, các đôi trai, gái thường tự tìm
đến người ưng ý hoặc bố mẹ sắp đặt cho gặp gỡ, khi đi đến thống nhất lập gia
đình, hai bên gia đình sẽ chọn ngày tốt để tổ chức, nghi lễ cưới của mỗi dân
tộc mang một phong tục khác nhau, nổi bật và đặc trưng như nghi lễ của các dân
tộc: Thái, Mông, Dao. Tuy nhiên, đến nay do ảnh hưởng của văn hóa người kinh,
phần đa các đám cưới đã được tổ chức theo phong tục của người kinh. Ngoài những
nghi lễ trong cưới xin, tang ma, các dân tộc huyện Mộc Châu còn có nghi lễ đầy
tháng, đầy năm, mừng thọ, lễ cấp sắc…
Về văn học dân gian của các tộc
người ở
Tây Bắc rất phong phú, nhất là các dân tộc Thái, Mường, Mông được thể
hiện qua những câu truyện cổ, truyền thuyết, giã sử, cổ tích…Thơ ca dân gian
chiếm một vị trí rất lớn gồm những câu ca dao, những tập thơ về tình yêu, thơ
ca hát trong dịp hội hè, đám cưới, đám tang cho đến những bản trường ca, những
truyện thơ lịch sử… Những bài khắp của người Thái, áng mo đẻ đất, đẻ nước của
người Mường, tiếng hát làm dâu của người Mông, lời răn dậy của người Dao…những
nội dung của văn học dân gian đều phản ánh cuộc sống lao động sản xuất, xã hội
tộc người, nguồn gốc lịch sử của dân tộc mình, ca ngợi tình yêu đôi lứa, tình
cảm gia đình…
Về nghệ thuật dân gian của
các dân tộc huyện Mộc Châu được thể hiện rất phong phú, sinh động qua hàng loạt
các loại hình như nhạc cụ dân gian, dân vũ… có những nhạc cụ nổi tiếng như
cồng, chiêng của người Mường, khèn, kèn lá, đàn môi của người Mông và Pí pặp,
Pí thiu, trống của người Thái; Chuông, kèn gỗ, tù và của người Dao. Dân ca của
các dân tộc đa dạng như khắp, bao xao…của dân tộc Thái, các điệu khèn (Khèn
tắt thở, khèn lên ngựa, khèn tiến quân…trong tang lễ của dân tộc Mông)…
Múa dân gian của các dân tộc huyện Mộc Châu cũng rất đa dạng: Người Thái có
múa xòe, nhảy sạp, múa nón, người Mông nổi tiếng với múa khèn, Người dao có múa
chuông, Mgười Mường múa háti bong, múa đâm đuống…Mỗi dân tộc đều có kho tàng
nghệ thuật dân gian riêng của dân tộc mình, chứa đựng những tâm tư, tình cảm và
nhận thức của họ về tự nhiên, xã hội, con người cũng như tài năng sáng tạo văn
hóa trong lịch sử dân tộc.
Lễ hội là sinh hoạt văn hóa đặc
biệt nhằm đáp ứng nhu cầu về đời sống tâm linh của con người, có tính tập thể,
phản ánh tín ngưỡng và sinh hoạt của người dân trong lao động sản xuất, dòng
họ. Đối với các dân tộc
huyện Mộc Châu có một số lễ hội tiêu biểu như Lễ hội Cầu Mưa, lễ hội Hết Chá, lễ
hội Nào Sồng của dân tộc Mông…

3. Điều kiện tự nhiên

Mộc Châu là huyện miền núi, biên
giới nằm ở phía đông nam của tỉnh Sơn La. Độ cao trung bình so với mặt nước
biển 1.050 m. Tọa độ địa lý 20o63′ vĩ độ bắc và 104o30′ –
105o7′ kinh độ đông, có đường biên giới chung dài 40,6 km. Phía đông
và đông nam giáp huyện Vân Hồ, phía tây giáp
huyện Yên Châu, phía nam giáp huyện Vân Hồ và huyện Sốp Bâu, tỉnh Hủa Phăn (nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào), phía bắc giáp 2 huyện Phù Yên, Bắc Yên (Sông đà
là ranh giới). Từ thành phố Sơn La đến huyện Mộc Châu đi theo quốc lộ 6 dài 115
km. Từ Hà Nội đến huyện Mộc Châu theo quốc lộ 6 dài 195 km.
Mộc Châu là vùng đất có địa hình
cácxtơ (núi đá vôi), có nhiều núi, đồi cao nhấp nhô, nằm gối kề nhau chạy theo
hướng tây bắc – đông nam, xen lẫn với những vùng cao nguyên rộng lớn là những
vùng thảo nguyên, lòng chảo, những khe vực, suối, sông làm cho địa hình Mộc
Châu trở nên đa dạng.
Mộc
Châu
được xếp vào miền đất có vị trí mang tính chất tiếp xúc giữa
nhiều hệ thống địa lý.
Núi đá vôi ở Mộc Châu có độ cao
trung bình từ 1.100 m – 1.300 m so với mặt nước biển, trong đó có đỉnh Pha
Luông nằm ở phía nam huyện là ngọn núi cao nhất, với độ cao 1.880 m. Các cao
nguyên và bồn địa (đồng bằng giữa núi) làm nên yếu tố địa hình mang tính đặc
thù của miền đất Mộc Châu. Riêng cao nguyên Mộc Châu có độ cao trung bình 1.050
m.
Hiện nay, huyện Mộc Châu có tổng diện tích tự nhiên 108.166 ha.  Đất nông nghiệp
84.020,99 ha chiếm 77,68 % tổng diện tích tự nhiên, trong đó đất sản xuất nông
nghiệp 33.596,96 ha chiếm 31,1%; đất lâm nghiệp 50.303,05 ha chiếm 46,5%; đất
nuôi trồng thủy sản 99,86 ha chiếm 0,09%; đất nông nghiệp khác 21,12 ha chiếm
0,02%. Đất phi nông nghiệp 4.758,15 ha chiếm 4,4%, trong đó đất ở 813,06 ha
chiếm 0,75%; đất chuyên dùng 2.114,20 ha chiếm 1,95%; đất tôn giáo, tín ngưỡng
2,00 ha chiếm 0,002%; đất nghĩa trang, nghĩa địa 319,25 ha chiếm 0,295%; đất
sông suối và mặt nước chuyên dùng 1.509,55 ha chiếm 1,396%; đất phi nông nghiệp
khác 0,09 ha. Đất chưa sử dụng 19.386,86 ha chiếm 17,92% diện tích tự nhiên của
huyện. Đây là tiềm năng để mở rộng quỹ đất sản xuất nông, lâm nghiệp cũng như
đáp ứng một phần các nhu cầu về đất cho mục đích chuyên dùng.
Nhờ các vận động địa chất và địa
lý đã tạo nên hai dạng thổ nhưỡng cơ bản cho
Mộc Châu. Đất frealít đỏ nâu phát triển trên nền phong hóa từ đá vôi (đá
mẹ) tức là đồi núi, cao nguyên. Đây là loại đất tốt có nhiều mùn, thích hợp cho
các loại cây trồng khô, đặc biệt các loại cây công nghiệp như chè, cà phê… và
những phiêng bãi, những đồi trọc rộng có độ dốc ít, đó là những cánh đồng cỏ
màu mỡ rất thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi gia súc lớn. Đất phù sa cổ,
phân bố dọc các thung lũng, các bồn địa giữa núi hoặc các vạt nhỏ ven chân núi.
Đất này tầng dày, thuận lợi về thủy lợi để canh tác lúa nước và trồng cây ăn
quả. Vì thế, vùng đất này đã trở thành một vùng quần cư, là một trong những khu
vực kinh tế trọng yếu của huyện, của tỉnh.
Khí hậu Mộc Châu chia thành hai
mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 9, mùa khô từ tháng 10 đến tháng 3 năm
sau. Tuy nhiên do nằm ở vùng cao nguyên có độ cao lớn, lại có địa hình cánh
cung mở đón hướng gió, nên vùng núi
Mộc Châu là nơi tiếp nhận sớm và chịu ảnh hưởng sâu sắc của gió mùa đông
bắc, gió thổi từ Lào sang, nên ở đây có yếu tố khí hậu á nhiệt đới mà rõ rệt
nhất là các xã dọc quốc lộ 6 và lân cận. Khí hậu ở đây rất mát mẻ, nhiệt độ
trung bình từ 18 đến 23oC, nhiệt độ chênh lệch giữa ngày và đêm 8oC;
độ ẩm trung bình 85% và là nơi có lượng bốc hơi thấp nhất tỉnh, trung bình 572
mm/năm. Mộc Châu là huyện có lượng mưa khá dồi dào, số ngày mưa trung bình 186
ngày/năm, lượng mưa trung bình năm từ 1.400 – 1.500 mm và là huyện có số ngày
mưa phùn cao nhất tỉnh, trung bình 50 ngày một năm. Đây còn là vùng chịu ảnh
hưởng của một số cơn bão và gió mùa đông bắc nên mùa khô khá lạnh và thường
xuyên bị sương muối, số ngày có sương muối trung bình là 5 ngày/năm. Đặc biệt,
Mộc Châu là huyện có số ngày sương mù cao nhất tỉnh, trung bình trên 80
ngày/năm, chính vì vậy Mộc Châu được mệnh danh là “xứ sở của sương mù” hay
“Mường Mọk”.
Với kiến tạo địa chất trên, Mộc
Châu còn là nơi gặp gỡ của nhiều sông suối. Trong đó, sông Đà là con sông lớn
nằm ở phía bắc của huyện, chảy qua xã Tân Hợp đến xã Quy Hướng. Suối Sặp chảy
qua huyện
Mộc
Châu dài 85 km
. cùng với suối Quanh, suối Đôn,
suối Giăng… tổng chiều dài tới 247 km, giữ vai trò quan trọng trong sự phát
triển của miền đất này.
Hiện tại, sông Đà thuộc hệ thống
sông lớn nhất ở khu vực Tây Bắc nước ta, đặc điểm nổi bật là độ dốc dòng sông
lớn, dòng chảy mạnh, nhất là vào mùa lũ, nên có tiềm năng để xây dựng thủy
điện. Năm 1994, công trình thủy điện Hòa Bình hoàn thành, năm 2014 công trình
thủy điện Sơn La hoàn thành là nơi cung cấp nguồn điện năng lớn nhất cho cả
nước, đồng thời tạo thành vùng lòng hồ sông Đà rộng lớn. Các dòng sông, suối và
hồ nước đó không những có vai trò điều tiết nước cho sinh hoạt và sản xuất của
nhân dân mà còn có tác dụng điều hòa khí hậu địa phương, cung cấp thủy sản và
thuận tiện giao thông đường thủy. 
Do độ cao và độ che phủ của thảm
thực vật thấp nên lưu lượng nước thiếu ổn định, khả năng giữ nước rất hạn chế
thường gây lũ quét, sạt lở đất và xói mòn mạnh. Mùa khô nhiều suối bị kiệt
nước, thậm chí không còn nước gây ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân
dân. Mộc Châu còn có 03 hồ chứa (hồ rừng thông
bản Áng – Đông Sang, hồ Nà Sài – Hua Păng, hồ Ta Niết – Chiềng Hắc), 51 công trình
phai kiên cố (đập xây), 13 phai rọ thép, 91 phai tạm. Mặt nước hồ là nguồn quan
trọng cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt của dân cư, nhất là trong mùa
khô. Nước chủ yếu là nguồn nước mưa được lưu giữ trong các ao, hồ chứa, kênh
mương, mặt ruộng và hệ thống sông suối. Nguồn nước mặt phân bố không đều cả về
thời gian và không gian, nguồn nước dồi dào về mùa mưa và cạn kiệt về mùa khô,
phần lớn mặt nước các sông, suối đều thấp so với mặt bằng canh tác và khu dân
cư nên hạn chế khả năng khai thác sử dụng vào sản xuất và đời sống. Tuy nhiên
do ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường từ các khu dân cư, các điểm chế biến nông
sản… nên chất lượng một số nguồn nước bị giảm, ảnh hưởng đến sản xuất và sinh
hoạt của nhân dân. Hiện nay việc phân tích chất lượng nguồn nước mặt để phục vụ
sinh hoạt của nhân dân theo các quy chuẩn quốc gia đều chưa thực hiện được.
Nguồn nước ngầm của huyện hiện tại
chưa có điều kiện thăm dò, khảo sát đầy đủ. Song, trong thực tế sự tích tụ của
hồ thuỷ điện
Hoà
Bình
làm cho các khe nứt, hệ thống hang động dưới 115m ở vùng Mộc Châu
hoạt động trở lại, đã đẩy mực nước ngầm lên cao hơn. Ở các khu vực còn lại nước
ngầm đã được nhân dân khai thác tương đối hiệu quả để phục vụ sinh hoạt. Một số
năm gần đây do độ che phủ của thảm thực vật giảm nên nguồn nước ngầm cũng bị
giảm đáng kể, một số khu vực các giếng đào đã bị cạn nước về mùa khô. Vì vậy để
đảm bảo có đủ nước phục vụ đời sống của nhân dân trong vùng cần quan tâm sử
dụng các biện pháp dự trữ nước mặt, nước mưa trong mùa khô như: đắp đập, xây bể
chứa nước… kết hợp với các biện pháp khoanh nuôi, bảo vệ và trồng rừng ở các
khu vực đầu nguồn.
Mộc Châu có một số loại khoáng sản
chính: Than bùn ở xã Tân Lập có thể khai thác để sản xuất phân bón phục vụ sản
xuất nông nghiệp. Mỏ đồng Sao Tua ở xã Tân Hợp đang được khai thác phục vụ sản
xuất công nghiệp.
Mỏ
đồng
với trữ lượng nhỏ nằm rải rác tại các xã: Hua Păng, Nà Mường, Quy
Hướng. Ngoài ra, Mộc Châu còn có nguồn đá vôi và đất sét với trữ lượng tương
đối lớn cho phép phát triển sản xuất gạch, ngói, vật liệu xây dựng thông
thường.
Mộc Châu có diện tích rừng đặc
dụng 2.338,112 ha; rừng phòng hộ 27.690,867 ha; rừng sản xuất 23.052,472 ha. Độ
che phủ của rừng 47% tổng diện tích tự nhiên. Có khoảng 456 loài thực vật thuộc
4 ngành với các loại gỗ quý phân bố trên toàn địa bàn như pơ mu, bách xanh,
thông, trò chỉ, nghiến… Có
48
loài động vật hoang
dã thuộc 19 họ của 8 bộ với các
loài động vật như gấu, hổ, hoẵng, lợn rừng
——
Nguồn: http://mocchau.sonla.gov.vn
—-
Trọn bộ tư liệu về Mộc Châu: hdv